NhoxLoveForever
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

NhoxLoveForever


 
Trang ChínhPortalTìm kiếmLatest imagesĐăng kýSHop Đăng Nhập

Share | 
 

 Thiên Long Bát Bộ

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Chuyển đến trang : Previous  1, 2
Tác giảThông điệp
Oz Vessalius
Tướng Quân
Tướng Quân
Oz Vessalius

Tổng số bài gửi : 95
Điểm Thưởng : 5149
Độ Tin Tưởng : 104
Join date : 05/01/2011

Thiên Long Bát Bộ - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ   Thiên Long Bát Bộ - Page 2 I_icon_minitimeThu Jan 06, 2011 5:22 pm

Hồi 22

Một Phái Võ Kinh Hồn Ở Cô Tô




Những hào kiệt có mặt tại đây đều đã nghe tiếng "Truy hồn thủ Quá Ngạn Chi".
Tuệ
Thuyền hòa thượng và Kim Ðại Bằng đã từng gặp mặt Quá mấy lần. Quần
hùng nghe tin Quá đến đều răm rắp rời khỏi chỗ ngồi theo Ðoàn Chính
Thuần ra đón. Trừ có bốn vị là Bảo Ðịnh Ðế, Huỳnh Mi hòa thượng, Tả Tử
Mục và Tần Nguyên Tôn là vẫn ngồi yên.
Quá Ngạn Chi tuy thanh danh
lừng lẫy giang hồ lại là khách phương xa tới, song lấy địa vị trong võ
lâm mà nói thì Bảo Ðịnh Ðế và Huỳnh Mi hòa thượng dĩ nhiên không phải ra
cửa đón. Còn Tả Tử Mục và Tần Nguyên Tôn cũng có ý tự trọng, đặt địa vị
mình vào tôn sư đứng đầu một phái dù Quá Ngạn Chi thanh danh có lừng
lẫy mấy chăng nữa nhưng trên hãy còn sư phụ là Kha Bách Tuế. Tả Tử Mục
và Tần Nguyên Tôn đều tự ví mình ngang hàng với sư phụ của Quá nên cũng
cứ ngồi yên tại chỗ chứ không ra đón.
Ðoàn Chính Thuần ra tới cửa,
thấy một người trung niên tầm vóc cao lớn, tay trái dắt một con tuấn mã
sắc trắng rất oai hùng đang đứng trước cửa. Người này mặc tang phục, đầu
đội mũ vải gai, mặt đượm vẻ phong trần, hai mắt đỏ mọng
sưng húp rõ ra người mới có thân nhân vừa tạ thế.
Kim Ðại Bằng rảo bước đến trước mặt ân cần chào hỏi:
-Quá đại ca vẫn được mạnh giỏi chứ?
Người vận tang phục đó là Quá Ngạn Chi.
Quá Ngạn Chi đáp:
-Kim hiền đệ đấy ư? Ðã lâu nay ta không được gặp nhau nhỉ.
Ðoàn Chính Thuần nói:
-Quá
đại hiệp quang lâm nước Ðại Lý mà tiểu đệ không được biết trước để đi
đón tận ngoài xa, thực là có lỗi, xin đại hiệp miễn thứ cho.
Nói xong
vái dài một cái. Quá Ngạn Chi nghĩ bụng: "ta vẫn nghe tiếng anh em họ
Ðoàn nước Ðại Lý là người đại phú quý mà không kiêu căng chút nào, thực
là tiếng đồn không ngoa".
Quá Ngạn Chi vội vàng đáp lễ và khiêm nhường nói:
-Quá Ngạn Chi này là kẻ thất phu ở nơi thảo dã, dám phiền Vương gia ra tận cửa đón, thực áy náy vô cùng.
Ðoàn Chính Thuần đáp:
-Tước
hiệu "Vương gia" chẳng qua là theo thế tục đặt ra mà thôi. Còn đối với
đại hiệp thanh danh vang dội khắp nơi, tại hạ vốn có lòng ngưỡng mộ,
chúng ta nên xưng hô nhau bằng anh em, bất tất câu chấp thứ, nghi lễ hư
văn đó làm gì?
Ðoạn mời Quá Ngạn Chi vào phủ rồi giới thiệu với Bảo Ðịnh Ðế và các vị hào kiệt.
Ðoàn Chính Thuần nghĩ bụng:
-Trong
đám giang hồ hảo hán này cố nhiên là nhiều người tính tình khoát đạt,
hào sảng nhưng cũng không ít kẻ bụng dạ hẹp hòi. Thường thường chỉ vì
một câu nói hay cách tiếp đãi hơi thiếu sót một chút là gây thù kết oán
ngay. Bây giờ cách xếp đặt chỗ ngồi Quá Ngạn Chi thế nào cho ổn cũng là
một chuyện rất khó.
Nghĩ vậy ông nói:
-Quá huynh đang cữ tang, không hiểu dùng những món gì được? Gia nhân đâu sắp một tiệc riêng ra đây để tiếp Quá đại hiệp!
Quá Ngạn Chi lắc đầu từ chối:
-Ða tạ thịnh tình, tại hạ còn có việc gấp, xin cho uống một chén thanh trà là đủ.
Ðoạn nâng chén trà uống một hơi cạn, Quá nói tiếp:
-Vương gia! Sư thúc tôi ký ngụ ở Vương phủ, xin cho người báo tin giùm, để tại hạ được diện kiến và trình việc gấp.
Ðoàn Chính Thuần ngạc nhiên hỏi:
-Sư thúc Quá huynh là ai?
Ông tự hỏi: trong Vương phủ có ai là nhân vật của phái Tung Sơn đâu?
Quá Ngạn Chi đáp:
-Sư
thúc tôi thay họ đổi tên, nhờ nơi Vương phủ để tỵ nạn nên người chưa
dám nói rõ ra với Vương gia, thực là có tội lớn, dám xin Vương gia mở
lượng khoan hồng miễn trách cho. Tại hạ thay sư thúc tạ lỗi cùng Vương
gia.
Nói xong liền vái dài. Ðoàn Chính Thuần đáp lễ nhưng nghĩ mãi không ra sư thúc của Quá Ngạn Chi là ai.
Bỗng thấy Cao Thăng Thái quay sang bảo tên gia đinh đứng bên:
-Mi
vào phòng giấy trình Hoắc tiên sinh rằng: Truy hồn thủ Quá đại hiệp tới
đây có việc cần muốn bẩm với Kim Toán Bàn Thôi lão tiền bối, xin mời
tiên sinh ra đại sảnh nói chuyện.
Tên gia đinh vâng lời vừa trở gót
bỗng nghe tiếng lẹp kẹp: một người đang ngất nga ngất ngưởng từ hậu
đường đi ra, vừa đi vừa nói lè nhè:
-Nó làm thế này thì mình khó mà ngồi mát bát dầy được nữa.
Các
tay hào kiệt nghe thấy bảy chữ: "Kim Toán Bàn Thôi lão tiền bối", có
người lờ mờ không hiểu là gì, có người biến sắc tự hỏi: chẳng lẽ thằng
cha Kim Toán Bàn Thôi Bách Kế lại ẩn tích ở đây ư?
Giữa lúc đó, một
lão già mặt mũi bần tiện, cười khì khì đi ra. Mọi người trong Vương phủ
từ trên chí dưới ai cũng biết đó là Hoắc tiên sinh, người trông nom giúp
sổ chi tiêu các việc vặt trong Vương phủ. Ngày nào cũng như ngày nào,
nếu lão không say bí tỷ thì lại đâm đầu vào đánh bạc với bọn tôi đòi,
thật là con người bê bối. Trong phòng kế toán, chỉ vì lão mà phương diện
tiền bạc mất cả quy củ. Mười mấy năm nay vẫn mặc lão làm lộn bậy thế
nào thì làm.
Ðoàn Chính Thuần xiết đỗi ngạc nhiên lẩm bẩm: "không ngờ
Hoắc tiên sinh lại chính là Thôi Bách Kế ư? Thật mình có mắt không
tròng, kể cũng bẽ mặt. May mà Cao Thăng Thái gọi trúng tên lão. Các tay
hào kiệt vẫn cho là trong phủ Trấn Nam Vương đã biết lão từ trước rồi
nên Ðoàn Chính Thuần này cũng không đến nỗi mất thể diện.
Hoắc tiên sinh vẫn bảy phần say, ba phần tỉnh vẻ mặt thì ngơ ngác. Nhìn thấy Quá Ngạn Chi vận tang phục lão giật mình hỏi:
-Mi... mi có chuyện chi vậy?
Quá Ngạn Chi bước lên mấy bước, lạy sụp xuống đất, khóc oà lên nghẹn ngào đáp:
-Sư thúc ơi ! Sư phụ... sư phụ cháu đã bị người hạ sát rồi.
Thôi Bách Kế biến hẳn thần sắc, nét mặt đang ngơ ngác thoáng cái đã đầy vẻ lo âu, dè dặt. Lão từ từ hỏi:
-Kẻ thù là ai?
Quá Ngạn Chi nức nở đáp:
-Bởi
cháu tài hèn, tra hỏi mãi mà chưa biết đích kẻ thù là ai. Song theo sự
suy đoán thì có phần đúng là một nhân vật trong họ Mộ Dung ở Cô Tô.
Hoắc tiên sinh lộ vẻ kinh sợ nhưng chỉ thoáng qua rồi nét mặt trở nên nghiêm nghị. Ông nói bằng một giọng trầm trầm:
-Việc này phải bàn tính một cách cẩn thận mới được.
Chuyện
nọ đẩy sang chuyện kia. Vì Quá Ngạn Chi muôn dặm đưa tin mà Kim Toán
Bàn Thôi Bách Kế phải lòi đuôi. Vì hỏi hung tin của Kha Bách Tuế mà đề
cập đến Mộ Dung thị.
Tiếng tăm Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi những
tay hào kiệt ngồi đây phần nhiều đều biết rõ. Có điều Thôi Bách Kế tuy
là sư thúc nhưng mấy năm gần đây ẩn tích một nơi không xuất đầu lộ diện,
nên thanh danh chẳng những không vang dội được bằng sư huynh Kha Bách
Tuế, chưởng môn phái Tung Sơn mà lại kém cả sư điệt Quá Ngạn Chi nữa.
Còn về những nhân vật trong họ Mộ Dung lợi hại thế nào thì mọi người đều
mờ mịt, ít ai biết đến. Chỉ riêng có Bảo Ðịnh Ðế và Huỳnh Mi hòa thượng
cùng đưa mắt nhìn nhau rồi Huỳnh Mi tăng lại khẽ thở dài.
Thôi Bách Kế tâm linh cực kỳ tế nhị, một tiếng thở dài khẽ của Huỳnh Mi cũng không qua khỏi lỗ tai lão được.
Lão bước tới trước mặt nhà sư kính cẩn vái dài nói:
-Chốn giang hồ sắp sinh tai hoạ, đại sư là bậc từ bi, xin chỉ điểm cho con đường sáng sủa.
Huỳnh Mi hoà thượng đứng dậy đáp lễ và trả lời:
-Thí
chủ nói rất phải, tiếc rằng bần tăng kiến văn hủ lậu, lại ở nơi hoang
sơn hẻo lánh, ít được nghe những vụ rồng tranh hổ đấu giữa các phái võ ở
Trung Nguyên.
Tỷ như Thôi thí chủ là một nhân vật anh hùng đến thế,
lại ở ngay phủ Trấn Nam Vương mấy năm rồi mà bần tăng cũng không biết
mảy may. Thế thì nói chi tới những việc ngoài chốn giang hồ nữa?
Thôi Bách Kế thần sắc thảm đạm quay sang nói với Quá Ngạn Chi:
-Quá hiền điệt! Sư huynh ta làm sao mà phải bỏ mạng? tình tiết xảy ra như thế nào, hiền điệt thuật lại tận tường cho ta nghe.
Quá Ngạn Chi đáp:
-Thù
thầy cũng như thù cha, chậm ngày nào chưa báo được là tiểu điệt ăn
không ngon, ngủ không yên. Xin sư thúc hãy lên đường ngay cho. Trong lúc
đi đường tiểu điệt sẽ bẩm rõ để khỏi chậm thời giờ.
Thôi Bách Kế
nhìn mặt biết là Quá Ngạn Chi có ý e ngại, ở trong đại sảnh này có rất
nhiều tai mắt, nói ra có điều bất tiện chứ không phải là tranh thủ sớm
muộn một hai thời khắc.
Thôi Bách Kế suy tính trong bụng: "mình ký
ngụ ở phủ Trấn Nam Vương đã lâu năm tuyệt không để lộ hình tích thế mà
Cao Thăng Thái cũng biết rõ hành tung, nếu bây giờ mình không xin lỗi
Trấn Nam Vương tức là mình đắc tội với họ Ðoàn. Huống chi muốn vì sư
huynh báo cừu mà xung đột với Mộ Dung thị, việc đó quyết không thể một
mình có đủ sức làm được. Nếu họ Ðoàn phái người tương trợ thì lực lượng
sẽ mạnh hơn nhiều. Thêm bạn bớt thù là một điều rất quan trọng".
Nghĩ
vậy Thôi Bách Kế liền chạy tới trước mặt Ðoàn Chính Thuần, quỳ hai gối
xuống đất và buông tiếng khóc oà lên. Mọi người thấy thế đều ngạc nhiên.

Ðoàn Chính Thuần vội đưa hai tay đỡ dậy, nhưng không ngờ mó vào
người Thôi Bách Kế thì thấy người lão vững như là đóng đinh xuống đất,
không tài nào lay chuyển được.
Ðoàn Chính Thuần nghĩ thầm: "thằng
quỷ bét rượu này, võ công lão gớm thật". Lâu nay mình bị lão đánh lừa
hoài". Ðoàn Chính Thuần vận kình lực vào hai cánh tay nhấc bổng lão lên.

Thôi Bách Kế cũng không vận nội lực chống lại nữa, mượn đà đứng
phắt dậy. Nhưng vừa đứng được thẳng người lên, lão cảm thấy xương cốt
trong mình đều đau ê ẩm, rất là khó chịu, tựa như con thuyền nhỏ ngoài
khơi bị một cơn sóng gió đánh tơi bời.
Lão biết là Ðoàn Chính Thuần có ý cảnh giác mình. Lão là người đa mưu quả xứng đáng với cái tên Thôi Bách Kế.
Lão
nghĩ thầm: "nếu mình còn vận nội lực để chống lại, Trấn Nam Vương sẽ
không hả giận mà chưa biết chừng ông còn ngờ mình trà trộn vào nằm trong
Vương phủ để mưu toan việc gian ác". Vì nghĩ thế nên Thôi Bách Kế theo
đà lúc chân khí trong người đang tản mát tức thời té ngồi phệt xuống kêu
lên: "ối chà".
Ðoàn Chính Thuần mỉm cười, đưa tay kéo Thôi Bách Kế
dậy, đồng thời xoa luôn một cái để tiêu giải những bứt rứt trong cơ thể
họ Thôi.
Thôi Bách Kế nói:
-Trấn Nam Vương gia ! Thôi Bách Kế này
bị kẻ thù bức bách, không còn đường chạy nên phải vác cái mặt dầy tới
Vương phủ nương tựa uy danh Vương gia sống được tới nay, vậy mà Bách Kế
chưa thổ lộ chân tướng với Vương gia, thật là tội đáng muôn chết.
Cao Thăng Thái ngắt lời:
-Thôi
huynh bất tất phải quá khiêm? Vương gia đây cũng biết rõ thân thế và
lai lịch các hạ từ lâu rồi. Có điều các hạ là bậc chân nhân, không muốn
lộ tướng nên Vương gia đây cũng không muốn nói ra thôi. Ðừng nói Vương
gia hiểu rõ đã đành, mà ngay những người chung quanh cũng biết cả. Hôm
thế tử đối phó với cuộc đánh quyền của Nam Hải Ngạc Thần chẳng đã giắt
Thôi huynh ra đóng vai sư phụ của chàng là gì? Vì thế tử biết rõ trong
Vương phủ chỉ có mình Thôi huynh khả dĩ đối phó được với Nam Hải Ngạc
Thần mà thôi.
Kỳ thực bữa đó Ðoàn Dự kéo Thôi Bách Kế ra để mạo nhận
là sư phụ chẳng qua là sự ngẫu nhiên mà trúng đấy thôi. Ðoàn Dự thấy
Thôi Bách Kế dáng điệu ngớ ngẩn, hình dong cổ quái nên đem lão ra cố ý
để trêu cợt Nam Hải Ngạc Thần làm một trò cười. Song bây giờ nghe Cao
Thăng Thái nói Thôi Bách Kế lại tin là sự thực.
Cao Thăng Thái lại nói tiếp:
-Vương
gia đây vốn là người hiếu khách, đừng nói gì Thôi huynh lưu trú tại
nước Ðại Lý chúng tôi tuyệt không có âm mưu ác ý gì đã đành, mà giả tỷ
có lòng bất trắc đối với nước tôi chăng nữa, Vương gia đây vẫn đại lượng
bao dung, lấy thành thực để tiếp đãi. Thôi huynh bất tất phải băn khoăn
về điểm đó.
Lời Cao Thăng Thái nói còn ngụ ý nữa là: anh không có
vết tích gì bất lương nên mới dung dưỡng tới ngày nay, bằng không thì
chúng tôi đã sửa anh từ lâu rồi.
Thôi Bách Kế lại nói:
-Tuy hầu
gia dạy thế, song Thôi mỗ vì sao phải vào Vương phủ nương náu thì trước
khi cáo biệt cũng cần phải trình bày cho rõ nếu không chẳng hoá ra còn
tệ hơn phường du côn hay sao? Chỉ vì việc này liên quan tới nước ngoài,
nên Thôi mỗ mạo muội xin mượn tạm một nơi để tiện việc đàm luận.
Ðoàn Chính Thuần quay lại bảo Quá Ngạn Chi:
-Báo
cừu cho sư phụ là việc trọng đại, Quá huynh chẳng nên hấp tấp nóng
nảy,nán chờ chốc lát. Sau khi tan tiệc, chúng ta sẽ từ từ thương nghị
cũng chưa chậm.
Các tay hào kiệt ở đây đều là những người lịch duyệt
giang hồ nên rất thiệp đời, không muốn làm mất thì giờ và phiền cho
người khác trong lúc cấp bách nên đều ăn uống lào thào cho qua bữa rồi
răm rắp đứng dậy cáo từ.
Trấn Nam Vương đối với bạn hữu giang hồ rất
là trọng hậu, thấy tân khách đứng dậy liền sai gia nhân đem lễ vật ra
rồi chính tay đưa tặng mọi người. Riêng đối với Kim Ðại Bằng và Sử An là
những khách từ phương xa tới lại đặc biệt tặng thêm tiền lộ phí nữa.
Trong đám hào kiệt những người hào sảng thản nhiên nhận tiền còn những
người câu nệ lễ nghi thì nhún nhường bái tạ.
Giữa lúc chủ khách ân cần tiễn biệt bỗng nghe ngoài cổng phủ có tiếng niệm:
-A di đà Phật! A di đà Phật!
Tiếng
tuy không to nhưng ai nghe cũng rõ mồn một, tựa như chỉ cách độ hai ba
thước. Các tay hào kiệt trong sảnh đường hết thảy đều kinh ngạc. Phủ
Trấn Nam Vương địa thế rất rộng, từ ngoài cổng vào đại sảnh cách xa tới
hơn mười trượng, quãng giữa lại còn những tường vách, cửa ngõ ngăn chặn,
thế mà tiếng nói bên ngoài đại môn ở trong nghe rõ mồn một đủ biết về
môn Thiên lý truyền âm người này thực đã luyện tới chỗ thượng thừa tuyệt
đỉnh.
Ðoàn Chính Thuần nghe tiếng Thiên lý truyền âm biết ngay người đó thuộc phái Thiếu Lâm nên đã từ trong đáp vọng ra:
-Một vị cao tăng phái Thiếu Lâm giá lâm nước Ðại Lý Ðoàn Chính Thuần này không biết để ra nghênh đón từ xa, thật thất lễ quá.
Ðoàn Chính Thuần vừa nói vừa chạy ra đón. Ông bước rất mau, nháy mắt đã ra tới cổng ngoài.
Một vị hòa thượng người khô như hạc, tuổi chừng năm mươi trở lại chắp tay nói:
-Bần tăng là Tuệ Chân ở chùa Thiếu Lâm xin tham kiến Ðoàn Vương gia.
Trong lúc Ðoàn Chính Thuần đang đáp lễ thì Tuệ Thiền hòa thượng cũng theo ra tới nơi, ngạc nhiên hỏi:
-Sư huynh! Sư huynh cũng tới nước Ðại Lý hẳn có chuyện gì?
Tuệ Chân hai mắt đỏ hoe, đầy vẻ buồn rầu đáp:
-Sư đệ ơi! Sư phụ đã viên tịch về Tây phương rồi.
Tuệ
Thiền tuy là đệ tử nhà Phật nhưng tính tình bộp chộp, vừa nghe hung tin
nhảy sấn lại cầm chặt lấy tay Tuệ Chân run run hỏi lại:
-Thực... thực vậy ư?
Tuệ Chân chưa kịp đáp thì nước mắt Tuệ Thiền đã dòng dòng chảy xuống.
Tuệ Chân nói với Ðoàn Chính Thuần:
-Sư đệ bần tăng vì quá xúc động trước sự bất hạnh của gia sư nên thất lễ trước giá, khiến vương gia phải bật cười.
Ðoàn Chính Thuần vội đáp:
-Không dám! Không dám!
Ðoàn
Chính Thuần nghĩ bụng: "Sư phụ Tuệ Thiền là Huyền Bi đại sư, vẫn nổi
tiếng võ công trác tuyệt. Thế này thì phái Thiếu Lâm lại mất một bậc cao
thủ rồi".
Tuệ Thiền nghẹn ngào nói tiếp:
-Sư phụ bị bệnh gì? Ngài vẫn khoẻ mạnh cơ mà?
Thấy trước cửa nhiều người qua lại rất phức tạp, Tuệ Chân hai tay cầm phong thư đưa cho Ðoàn Chính Thuần và nói:
-Thưa Vương gia! Bần tăng vâng mệnh chưởng môn sư bá, tới đây đệ trình tâm thư lên Bảo Ðịnh Hoàng gia cùng Vương gia.
Ðoàn Chính Thuần đón lấy thư rồi nói:
-Hoàng huynh tại hạ cũng ở đây, tại hạ xin đưa đại sư vào tương kiến.
Nói xong dẫn Tuệ Chân và Tuệ Thiền vào nội sảnh.
Ðoàn
Chính Thuần đệ thư tín lên. Bảo Ðịnh Ðế mở ra coi, thấy phần trên nói
đại khái mấy câu sáo ngữ, xưng tụng đức độ anh em mình và tỏ lòng ngưỡng
mộ còn phần chính đề chỉ vắn tắt mấy câu: "Nay võ lâm kiếp vận tới nơi,
xin đừng nghĩ cháy nhà hàng phố bình chân như vại, sự thể thế nào hãy
hỏi sư điệt Tuệ Chân sẽ rõ". Dưới ký tên chưởng môn trụ trì tại chùa
Thiếu Lâm là Huyền Từ kính thư.
Xem xong Bảo Ðịnh Ðế kính cẩn nói:
-Xin
mời hai vị ngồi! Ðại sư bên Thiếu Lâm đã có pháp dụ, chúng ta hết thảy
đều ở trong phái võ lâm cả. Bất luận điều gì mà sức có thể làm được sẽ
xin vâng mệnh.
Tuệ Chân quỳ hai gối dập đầu "binh binh" xuống đất, vừa lạy vừa khóc không ra tiếng.
Tuệ Thiền thấy sư huynh như vậy, tuy chưa hiểu rõ nguyên do, cũng quỳ xuống một bên nhưng không khấu đầu.
Bảo
Ðịnh Ðế thấy Tuệ Chân dùng đại lễ như thế, trong bụng biết chắc là quan
trọng: trong phái Thiếu Lâm thiếu gì cao thủ tuyệt vời, nhân tài thật
lắm, có việc gì trọng đại không giải quyết được mà phái Tuệ Chân đến cầu
mình ân cần thế này?
Nhà Vua liền đưa hai tay đỡ hai hòa thượng dậy nói:
-Chúng ta đều là đồng đạo trong võ lâm, tôi không dám nhận đại lễ như vậy.
Tuệ Chân khóc nức nở đáp:
-Gia
sư bỏ mạng dưới bàn tay Cô Tô Mộ Dung thị, phái Thiếu Lâm không thể độ
lực báo được mối thù này. Xin Hoàng gia xuất mã chủ trương đại cuộc cho!
Bảo Ðịnh Ðế nghe nói đến năm chữ "Cô tô Mộ Dung thị" mặt hơi biến sắc.
Tuệ Thiền lại khóc oà lên nói:
-Thế thì chúng ta đành liều mạng với kẻ thù thôi.
Tuệ Chân nghiêm nét mặt đáp:
-Trước mặt Hoàng gia đây không được thất lễ.
Tuệ
Chân người bé nhỏ lại gầy đét còn Tuệ Thiền thì khôi ngô tuấn tú nhưng
rất nể sợ sư huynh, nghe sư huynh chỉ trích mấy câu không dám nói gì nữa
nhưng vẫn nức nở khóc thầm.
Bảo Ðịnh Ðế nói:
-Hai vị hãy ngồi đây
thong thả nói chuyện. Hơn hai mươi năm trước đây tôi từng nghe ở Tô
Châu có một nhân vật trong họ Mộ Dung tên gọi Mộ Dung Bác, kẻ vừa gây sự
với phái Thiếu Lâm có phải là người đó không?
Tuệ Chân nghiến răng đáp:
-Tiểu tăng chỉ biết kẻ đối đầu là người họ Mộ Dung, nhưng không biết rõ tên.
Bảo Ðịnh Ðế nói tiếp:
-Thiếu
Lâm là một phái có tiếng tăm lừng lẫy nhất trong võ lâm, bốn bề đều
ngưỡng mộ đại danh. Lệnh sư Huyền Bi hoà thượng nội lực ngoại công đều
tới chỗ tuyệt cao, hơn nữa là người xuất gia, không có tranh chấp gì với
người đời. Không hiểu tại sao lại bị người đời sát hại?
Tuệ Chân sa lệ đáp:
-Hôm
đó tiểu tăng ngồi tĩnh toạ trong trai phòng thấy sư bá sai người tới
gọi, tiểu tăng tới nơi thì thấy thi thể gia sư để nằm một bên. Sư bá bảo
là người trong làng ở chân núi Tung Sơn thấy thi thể gia sư, họ biết là
sư phụ trong chùa nên vội đem lên chùa trả. Không hiểu rõ được gia sư
lỡ tay thế nào mà bị địch thủ ám toán. Còn tên họ và mặt mũi hung thủ,
cho mãi tới bây giờ vẫn chưa tra ra được.
Huỳnh Mi hòa thượng từ trước vẫn ngồi yên lắng tai nghe, bây giờ thốt nhiên cất tiếng hỏi:
-Phải chăng Huyền Bi đại sư bị trúng một đòn "Kim cương chữ" của kẻ địch vào trước ngực rồi viên tịch?
Tuệ Chân kinh ngạc đáp:
-Ðại sư đoán đúng lắm! Như vậy nghĩa là làm sao?
Huỳnh Mi tăng nói tiếp:
-Lâu
nay vẫn nghe tiếng Huyền Bi đại sư phái Thiếu Lâm có môn Kim cương chữ
là một môn trác tuyệt trong võ lâm, đối phương bị trúng phải sẽ đứt gãy
hết gân cốt. Môn đó cố nhiên là lợi hại lắm rồi, nhưng xét cho kỹ thì
lại quá ư bá đạo, những đệ tử nhà Phật không nên học môn đó để mà nổi
tiếng.
Ðoàn Dự buột miệng cũng nói xen vào:
-Phải rồi! Cái môn đó quả là hiểm độc thái quá.
Tuệ
Chân và Tuệ Thiền nghe Huỳnh Mi đả kích sư phụ mình trong lòng đã thấy
bất mãn nhưng còn kính nể ông là bậc cao tăng tiền bối không dám trả lời
lại thấy Ðoàn Dự ở bên cũng lẹ miệng hùa theo, bất giác hai người cả
giận đều quắc mắt nhìn. Ðoàn Dự vẫn tảng lờ như không trông thấy, chẳng
lý gì đến nữa.
Ðoàn Chính Thuần hỏi Huỳnh Mi hòa thượng:
-Tại sao sư huynh biết Huyền Bi đại sư chết vì trúng Kim cương chữ?
Huỳnh Mi tăng thở dài đáp:
-Vì
vừa nghe nói Huyền Từ đại sư bên Thiếu Lâm thấy di thể sư đệ mà đoán
biết được hung thủ là nhà Mộ Dung ở Cô Tô. Nhà này tuyên bố chủ trương
của họ là: ai giỏi môn gì thì họ lấy chính môn đó để mà hạ thủ.
Ðoàn
Chính Thuần nghe xong phải lắc đầu, còn Huỳnh Mi hòa thượng thì lẩm bẩm
đọc đến hai ba lần câu: "Ai giỏi môn gì thì lấy môn đó để mà hạ thủ"
trên nét mặt thoáng những nét sợ sệt.
Bảo Ðịnh Ðế và Ðoàn Chính Thuần
quen biết Huỳnh Mi đại sư từ mấy chục năm nay chưa từng thấy ông lộ vẻ
sợ hãi bao giờ. Cả lúc ông cùng thái tử Diên Khánh đấu cờ thí mạng, đã
trông rõ thế bại rồi, tuy ông có bối rối nhưng nét mặt
vẫn thản nhiên. Thế mà bây giờ ông phải sợ ra mặt đủ biết phái Mộ Dung lợi hại đến chừng nào.
Im lặng hồi lâu Huỳnh Mi tăng lại từ từ lên tiếng:
-Lão
tăng nghe nói Mộ Dung Bác là người giỏi số một trên thế gian. Có lẽ họ
lấy tên là Bác để phô cái võ công uyên bác đến cực điểm của họ. Tựa hồ
như trong võ lâm, bất luận về môn tuyệt kỹ của một phái nào họ đều thông
hiểu. Kể cũng lạ thật, khi họ muốn giết chết ai nhất định lại dùng cái
môn tuyệt kỹ đã nổi tiếng của người đó để sát hại.
Ðoàn Dự nói xen vào:
-Vâng!
quả là một điều kỳ dị ngoài sức tưởng tượng của con người. Võ công
trong thiên hạ biết bao nhiêu là môn, làm sao mà họ học được cả?
Huỳnh Mi đáp:
-Ðoàn
công tử nói đúng đó. Việc học rộng như biển cả, ai mà thông suốt hết
được bao giờ? Có điều kẻ thù của Mộ Dung Bác cũng chẳng có nhiều. Nếu họ
chưa học được hết môn tuyệt kỹ của cừu nhân đến mức có thể dùng để giết
đối phương thì họ sẽ không động thủ được.
Bảo Ðịnh Ðế nói:
-Tôi
cũng nghe thấy ở Trung Nguyên có người kỳ dị như thế. Lạc thị tam hùng ở
Hà Bắc nổi tiếng về môn phi truỳ rồi sau ba người đó đều chết vì bị
trúng phi truỳ.
Rồi Chương Hư đạo nhân ở Sơn Ðông lúc định giết ai ba
giờ cũng chém cụt hết chân tay, để địch thủ phải kêu khóc hàng nửa ngày
rồi mới chết được. Sau chính Chương Hư đạo nhân cũng bị thảm báo như
thế. Lời tuyên bố của nhà Mộ Dung từ cửa miệng Chương Hư đạo nhân truyền
đi.
Ngừng một lúc Bảo Ðịnh Ðế lại nói tiếp:
-Hồi ấy, ở Tế Nam
giữa phiên chợ náo nhiệt không biết bao nhiêu người quây quần chung
quanh Chương Hư đạo nhân nằm lăn lộn kêu gào dưới đất.
Nói tới đó Bảo
Ðịnh Ðế phảng phất dường như đang mục kích cái thảm trạng Chương Hư đạo
nhân trong lúc lâm tử. Nét mặt nhà Vua đầy vẻ bất mãn.
Ðoàn Chính Thuần gật đầu nói:
-Thế thì đúng rồi.
Chợt nhớ ra một việc Ðoàn Chính Thuần nói tiếp:
-Tôi
nghe nói Kha Bách Tuế, sư phụ của Quá đại hiệp rất thiện sử cây nhuyễn
tiên, lúc giết kẻ địch thường dùng nhuyễn tiên quấn chặt vào cổ đối
phương khiến cho địch thủ chết vì nghẹt thở. Phải chăng lúc...
Ðoàn Chính Thuần chưa nói hết câu đã vỗ tay ba cái gọi một tên thị bộc tới bảo:
-Mi đi gọi Thôi tiên sinh và Quá đại hiệp tới đây để cùng ta thương nghị việc cần.
Tên
bộc thị ngập ngừng chưa hiểu Thôi tiên sinh là ai. Ðoàn Dự lại phải nói
cho gã biết Thôi tiên sinh tức là Hoắc tiên sinh, người giữ sổ sách chi
tiêu trong Vương phủ. Bấy giờ tên bộc thị mới hiểu rõ chạy đi mời.
Trong giây phút Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi đã đến sảnh đường.
Ðoàn Chính Thuần nói:
-Quá đại hiệp! Tại hạ có một việc muốn hỏi, xin đại hiệp miễn trách!
Quá Ngạn Chi đáp:
-Không dám.
Ðoàn Chính Thuần hỏi:
-Tại sao lệnh sư Kha tiền bối bị họ ám toán và bị tử thương đến trí mạng? vì quyền cước hay vì binh khí?
Quá Ngạn Chi thẹn đỏ ửng cả mặt, lúng túng mãi mới trả lời được:
-Gia sư bị hại vì một đòn "linh xà chiến đẩu".
Bảo Ðịnh Ðế, Ðoàn Chính Thuần và Ðoàn Dự đưa mắt nhìn nhau trong lòng đều thấy rùng rợn.
Tuệ Chân vội chạy tới trước mặt Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi chắp tay vái chào nói:
-Anh em bần tăng cùng hai vị đều căm phẫn một kẻ thù chung. Nếu không diệt được nhà Mộ Dung ở Cô Tô...
Tuệ
Chân nói dở câu thì trong bụng nghĩ thầm: "chưa chắc mình đã diệt nổi
nhà Mộ Dung. Nếu không xong thì lại là một điều rất nguy hiểm". Nhà sư
nghiến răng nói tiếp:
-Bần tăng nhất quyết liều mạng với họ.
Quá Ngạn Chi hai mắt đẫm lệ đáp:
-Thế ra phái Thiếu Lâm cũng kết mối thâm thù với nhà Mộ Dung rồi ư?
Bấy giờ Tuệ Chân mới đem việc sư phụ Huyền Bi chết về tay Mộ Dung thế nào, thuật qua lại một lượt.
Bảo
Ðịnh Ðế thấy Quá Ngạn Chi lộ vẻ sầu bi, căm hờn, nghiến răng thống hận
kẻ thù, còn Thôi Bách Kế chỉ cúi đầu rũ rượi chẳng nói năng gì tựa hồ
như không quan tâm gì đến mối thù sư huynh bị sát thân, trong lòng rất
lấy làm kỳ dị. Tuệ
Thiền hoà thượng tính vốn thẳng thắn bộp chộp, buột miệng hỏi ngay:
-Thôi tiên sinh! Có phải tiên sinh sợ bọn Mộ Dung ở Cô Tô chăng?
Tuệ Chân vội mắng át:
-Sư đệ! Không được vô lễ.
Kha Bách Tuế qua đời rồi thì Thôi Bách Kế sẽ là chưởng môn phái Tung Sơn.
Phái
Tung Sơn ở gần kề ngay phái Thiếu Lâm. Nên nhớ rằng ông thuỷ tổ dựng ra
phái Tung Sơn đã dám đến bên cạnh phái Thiếu Lâm, dựng ra một môn phái,
nêu cao ngọn cờ võ thuật phi phàm thì đủ biết bản lãnh phái này thế
nào. Hơn nữa thầy trò Kha Bách Tuế và Quá Ngạn Chi đều thanh danh lừng
lẫy khắp Trung Nguyên, danh vị Thôi Bách Kế trong võ lâm tất nhiên cũng
không phải là hèn kém. Nào ngờ Thôi Bách Kế vừa nghe Tuệ Thiền nói đã lơ
láo ngó lui, ngó tới tựa hồ sợ trong vách có tai hay kẻ thù ghê gớm
rình rập sắp ập vào, tỏ ra con người khiếp nhược.
Tuệ Thiền thấy dáng điệu Thôi Bách Kế như vậy, cho là một kẻ hèn nhát đáng khinh, liền hừ một tiếng và nói lẩm bẩm một mình:
-Ðại trượng phu lúc đáng chết thì chết làm gì phải sợ sệt đến thế?
Lúc
đó Tuệ Chân cũng biểu đồng tình về sự khiếp nhược của Thôi Bách Kế nên
mặc cho sư đệ muốn nói gì thì nói, cũng không ngăn cản nữa.
Huỳnh Mi hòa thượng khẽ đằng hắng rồi nói:
-Việc này...
Huỳnh
Mi vừa nói được hai tiếng thì Thôi Bách Kế toàn thân run lẩy bẩy, đứng
bật lên như cái lò xo, đụng phải chiếc chén nước trên khay trà rơi
"binh" xuống đất, vỡ tan ra.
Thôi tiên sinh định thần lại, thấy mọi người đều chú mục nhìn mình, bất giác đỏ mặt tía tai ngượng nghịu nói:
-Không xong rồi! Không xong rồi!
Quá Ngạn Chi chau đôi mày, cúi xuống nhặt những mảnh chén vỡ.
Ðoàn Chính Thuần nghĩ bụng: "lão Thôi Bách Kế này không có một chút gan dạ nào hết", rồi quay sang hỏi Huỳnh Mi:
-Việc này sư huynh nghĩ sao? Xin cho nghe nốt!
Huỳnh Mi hấp một hớp nước trà rồi thủng thẳng hỏi:
-Thôi thí chủ đã gặp Mộ Dung Bác rồi?
Thôi
Bách Kế vừa nghe ba chữ "Mộ Dung Bác" đã giật mình rú lên một tiếng
kinh hãi, rồi hai tay vịn vào ghế cho khỏi té, giọng run run đáp:
-Chưa... tôi đã... không... gặp bao giờ.
Tuệ Thiền hỏi lớn:
-Thôi tiên sinh đã gặp Mộ Dung Bác chưa? Xin nói rõ!
Thôi
Bách Kế giương đôi mắt nhìn trời như kẻ mất hồn. Bọn Ðoàn Chính Thuần
thấy thế đều lắc đầu, ngấm ngầm thất vọng. Quá Ngạn Chi vốn dĩ bảo trọng
danh dự của môn phái, bây giờ thấy sư thúc, người kế vị chưởng môn tỏ
vẻ hèn nhát trước mặt mọi người lại càng cảm thấy bứt rứt khó chịu.
Ðược một lúc Thôi Bách Kế mới cất giọng run run đáp:
-Chưa... ờ... hình như chưa gặp bao giờ.
Huỳnh Mi nói:
-Lão
tăng đã từng có phen đích thân nếm trải, vậy xin thuật lại để các vị
tham tường cũng chẳng hại gì. Việc xảy ra đã bốn mươi ba năm trước đây
rồi.
Lúc đó bần tăng còn ít tuổi sức mạnh, vừa xuất thân đã chiếm
được chút thanh danh trong chốn giang hồ, khác nào trâu nghé mới sinh
chưa biết sợ hổ là gì. Vẫn tưởng là khắp thế gian rộng lớn này, ngoài sư
phụ ra không còn ai võ nghệ cao cường bằng mình nữa.
Năm đó, tôi hộ
tống một ông quan đã mãn nhiệm kỳ tại kinh về quê với cả gia quyến.
Khởi hành từ Biện Lương về Sơn Ðông. Khi tới rặng núi phụ cận Thanh báo
cương thì gặp bốn tên cường đạo.
Bọn này không cướp tiền của đồ vật
mà chỉ định bắt tiểu thư con vị quan đó. Bần tăng đang độ thanh niên khí
khái, quyết chẳng dung tình, hạ thủ ngay bằng những đòn hiểm độc. Dùng
môn Kim cương chỉ hạ sát luôn bốn tên cường đạo, tên nào cũng bị ngón
tay đâm thủng vào tận tim, chết không kịp ngáp.
Giữa lúc đó bỗng nghe tiếng vó ngựa nhộn nhịp, hai
người
cưỡi lừa đi ngang qua. Bần tăng đang lúc vênh vang đắc ý, quá ư kiêu
ngạo, nói phun bọt rãi, khoe khoang với vị kinh quan: "dù có tám, chín,
mười đứa cường đạo nữa tới tôi cũng dùng kim cương chỉ giết cho chết
hết".
Bỗng một người ngồi trên lưng lừa "hừ" một tiếng, nghe tựa như
tiếng đàn bà. Trong cái hừ đó dường như chứa đựng đầy vẻ khinh miệt,
chế diễu. Tôi quay đầu nhìn lại, quả thấy một thiếu phụ rất đẹp, chừng
32, 33 tuổi ngồi trên lưng lừa và một cậu trai nhỏ chừng 12, 13 tuổi, mi
thanh mục tú, hình dung tuấn nhã cưỡi trên lưng một con lừa khác.
Hai
người đều có trọng tang, mặc toàn đồ trắng. Cậu bé nói: "Má! Hay chi
cái trò "Kim cương chỉ" mà gã kia cũng đem ra khoe khoang khoác lác?".
Lai
lịch Huỳnh Mi tăng thế nào, ngoài anh em Bảo Ðịnh Ðế ra ít ai biết rõ.
Song lúc ở trong hang Vạn Kiếp nhà sư dùng sức Kim Cương chỉ vạch đá làm
bàn cờ, ấn lõm đá thành quân cờ, cuộc đấu trí đấu lực với thái tử Diên
Khánh rất gay go và hi hữu đó đã trở thành một câu chuyện rất hào hứng
trong võ lâm. Mọi người đều đem lòng kính ngưỡng nhà sư và rất khâm phục
môn "Kim cương chỉ". Bây giờ nghe hoà thượng thuật lại lời cậu bé, ai
cũng cho là đứa trẻ nít không biết gì nói bậy. Không ngờ Huỳnh Mi khẽ
thở dài rồi nói tiếp:
-Nghe cậu bé nói, bần tăng tuy cũng có ý tức
giận, song cho là lời ngông càn của con nít, không đáng chấp nên chỉ lừ
mắt nhìn qua, rồi cũng chẳng thèm lý đến nữa.
Nào ngờ thiếu phụ lại
chỉ trích thêm: "Môn Kim cương chỉ của người đó là môn chính tông Bồ Ðề
Ðạt Ma, về nghệ thuật kể cũng được tới ba thành rồi đấy. Mi là con nít
biết gì mà nói? Mi phóng ngón tay chắc chưa được trúng bằng người
tađâu".
Bần tăng nghe thiếu phụ nói vừa kinh ngạc lại vừa phẫn nộ.
Nguồn gốc môn phái bần tăng khách giang hồ ít ai biết rõ. Thế mà thiếu
phụ này công nhiên nói toạc ra, lại còn biết bần tăng luyện môn "Kim
cương chỉ" mới được có ba thành,
điều này khiến bần tăng không thể nhịn được.
Ôi! kỳ thực bần tăng chưa hiểu trời cao đất rộng, công lực của bần tăng ngày ấy mà bảo đã luyện được tới ba thành là
nói quá lên rồi chứ đúng ra mới được hơn hai thành mà thôi.
Bần
tăng lớn tiếng thách thức: "Vị phu nhân kia tôn tính là gì? Ðã coi
thường "Kim cương chỉ" của tại hạ, chắc là có ý dạy cho mấy đòn chăng?".
Cậu bé gò cương lại, vừa toan trả lời, thì thiếu phụ thốt nhiên hai mắt
đỏ ngầu, rớm lệ bảo con: "Gia gia mi lúc lâm chung đã dặn những gì? Mi
chóng quên thế?".
Cậu bé đáp: "Dạ! Khi nào con dám quên?".
Hai con lừa lại tiếp tục cất bước đi về phía trước.
Bần
tăng càng nghĩ lại càng bất phục, liền thúc ngựa đuổi theo gọi: "Ô kìa!
Trong đám giang hồ có ai lại mở miệng chỉ trích bừa bãi võ công của
người khác rồi không ở lại tỷ thí mấy hiệp, cứ bỏ đi ngay mà được bao
giờ?". Con tuấn mã của bần tăng đi rất mau, vừa nói dứt lời nó đã vượt
lên chắn trước mặt hai người.
Thiếu phụ quay lại bảo con: "Mi coi đó mà coi! Cứ buột miệng nói bừa người ta đâu có chịu ngơ đi?".
Cậu bé này xem chừng đối với mẫu thân rất là hiếu thuận, không dám ngước nhìn bần tăng nữa.
Bần
tăng thấy họ đã sợ mình, nghĩ bụng: "đây là một cặp mẹ goá con côi,
mình có thắng họ cũng chẳng vẻ vang gì, hà tất ta phải cố chấp như mọi
người khác?
Song nghe lời thiếu phụ thì dường như đứa bé này đã biết môn "Kim cương chỉ".
Về
môn này bần tăng phải tốn công phu trong một thời gian 10 năm mới luyện
được tới mức đó vậy đứa con nít này có lý nào hiểu được? Chắc là nói
phóng đại đó thôi".
Bần tăng liền nói đổng một câu: "Hôm nay ta để
cho các ngươi đi về sau thì nói năng nên cẩn thận một chút nghe!". Thiếu
phụ đó vẫn không nhìn bần tăng, quay lại bảo con: "Thúc thúc đây nói
phải đó, về sau con nói năng nên cẩn
thận một chút". Nếu câu chuyện
tới đây mà thôi đi thì hai bên đều không mất thể diện. Khốn nỗi thời đó
bần tăng đang độ trẻ tuổi hung hăng, kéo ngựa sang bên đường nhường cho
thiếu phụ đi trước, đến lúc cậu bé vừa vỗ mình lừa cho cất bước, bần
tăng giơ roi quất vào mông lừa của cậu bé và cười vang lên bảo: "Ði mau
mau lên nhé". Ðầu roi của bần tăng còn cách mông lừa chừng một thước,
bỗng nghe rắc một tiếng, cậu bé quay đầu lại, luồng chỉ lực đã xé không
khí vụt tới đánh đứt chiếc roi ngựa của bần tăng ra làm đôi. Một thế
đánh làm cho bần tăng hoảng vía ngẩn người ra, biết rằng chỉ lực quá lợi
hại, muôn ngàn lần bần tăng không thể kịp được.
Lại nghe thiếu phụ bảo con: "Ðã trót ra tay thì phải làm sao cho kết liễu đi chứ?".
Cậu
bé đáp: "Vâng". Cậu nghiêng mình xuống lừa, chẳng nói năng gì, giơ một
ngón tay nhằm điểm vào cổ chân bần tăng. Cậu bé nhỏ và thấp, bần tăng
lại ngồi trên mình ngựa, ngón tay cậu chỉ chấm tới chân bần tăng, song
thế đánh của
cậu bé rất hay, đúng là thủ pháp "Kim cương chỉ".
Bần
tăng buông người từ trên mình ngựa xuống, không dám khinh thị cậu chút
nào, cũng dùng "Kim cương chỉ" để tiếp chiến. Hai bên giao đấu, càng
đánh bần tăng càng thấy sợ sệt vì chỉ pháp của cậu bé tuy chưa thuần
thục lắm, ngẫu nhiên cũng có chỗ sai, song chỉ lực đi tới đâu cũng phát
ra âm hưởng veo veo.
Bần tăng quả thực không dám tiếp chiến một cách
cứng rắn. Ðánh chưa được chín hiệp, thì trước ngực phía bên trái cảm
thấy đau nhói, rồi kình lực toàn thân bị mất hết.
Thuật tới đây Huỳnh Mi để lộ bộ ngực gầy gò, chìa cả mấy giẻ xương sườn ra.
Mọi
người thoáng nhìn đều sự tái mặt, vì thấy phía bên trái lồng ngực, nhằm
đúng vào tâm tạng, có một lỗ thủng sâu tới một tấc. Tuy lỗ thủng đã
thành sẹo rồi nhưng vẫn có thể tưởng tượng lúc mới bị đâm thì vết thương
đó hệ trọng tới mức nào. Có một điều kỳ dị là vết thương đó đã đâm
thủng vào sâu đến tâm tạng mà nhà sư vẫn không chết, còn sống được mãi
tới ngày nay.
Huỳnh Mi tăng lại trỏ vào phía ngực bên phải cho mọi người xem thì thấy da thịt chỗ đó luôn luôn phập phồng. Bấy giờ
họ
mới hiểu Huỳnh Mi hòa thượng có tướng khác lạ, tâm tạng lại lệch về bên
phải chứ không thiên sang bên trái như người thường, vì thế mà năm đó
hòa thượng mới thoát chết.
Huỳnh Mi xốc lại áo, thắt lại đai lưng rồi nói tiếp:
-Tâm tạng nằm lệch về bên phải như thế, thực là hàng vạn người không có một.
Cậu
bé thấy dùng chỉ lực đánh trúng tâm tạng mà bần tăng vẫn không chết,
vội nhảy lùi lại một bước, sắc mặt lộ vẻ kinh dị. Bần tăng nhìn lồng
ngực máu cứ ồng ộc tuôn ra, cho là tính mạng không thể bảo toàn được nữa
nên chẳng còn kiêng nể, cất tiếng mắng tràn: "Thằng giặc con kia! Mi
bảo mi biết sử dụng "Kim cương chỉ", hừ hừ Kim cương chỉ của Ðạt Ma hạ
viện, có bao giờ đánh người đến chảy máu mà vẫn không giết được người?".

Cậu bé nhảy lại trước mặt, toan đánh tiếp một chỉ. Lúc đó thì bần
tăng hoàn toàn không còn khả năng chống cự gì được nữa, chỉ có cách bó
tay đợi chết. Không ngờ thiếu phụ lại cầm roi ngựa vung ra, quấn chặt
lấy lưng cậu bé, nhấc lên một cái, nâng bổng cậu bé, đặt lên lưng lừa.
Trong lúc mê man, tôi còn nghe văng vẳng tiếng thiếu phụ chỉ trích con:
"Họ Mộ Dung đất Cô Tô có đứa trẻ nào tranh hơi như mi đâu? Kim cương chỉ
của mi đã không học được tới nơi, tới chốn nên không giết được y, ta sẽ
phạt mi trong bảy ngày...".
Nghe đang dở câu thì tôi bị ngất xỉu, không biết gì nữa, chẳng hiểu bà ta phạt con trong bảy ngày như thế nào.
Kim Toán Bàn Thôi Bách Kế hỏi:
-Ðại sư... về sau... về sau có gặp bọn họ nữa không?
Huỳnh Mi đáp:
-Nói
ra càng thêm xấu hổ. Từ lúc bần tăng trải qua việc đó đâm ra chán nản,
vì thấy đứa bé nhỏ xíu mà bản lãnh đã cao siêu đến thế, dù mình có luyện
võ công đến mấy đi nữa, cũng không tài nào kịp họ được.
Sau khi khỏi vết thương, lập tức bần tăng rời khỏi địa giới nước Ðại Tống tìm đến nước Ðại Lý, nương nhờ ở dưới
quyền cai trị của Ðoàn Hoàng gia. Qua được mấy năm, bần tăng xuất gia đầu Phật.
Trong
thời gian tu hành, bần tăng tuy đã thẩm thấu được lẽ sinh tử, không đem
sự vinh nhục năm xưa để vào trong tâm nữa song ngẫu nhiên hồi tưởng
đến, vẫn thấy ghê người, chẳng khác gì con chim phải tên.
Mọi người
nghe nói đều mặc nhiên không nói gì mà lòng khinh bỉ Thôi Bách Kế đã
giảm đi một phần. Vì võ công Huỳnh Mi cực kỳ lợi hại mà đối với nhà Mộ
Dung còn phải e dè thế thì Thôi Bách Kế có sợ thất thần cũng nên nguyên
lượng.
Thôi Bách Kế hình như cũng hiểu tâm tình mọi người bèn nói:
-Huỳnh
Mi đại sư là bậc đàn anh trong đám giang hồ còn đem việc dĩ vãng phơi
bày ra hết, không dấu giếm mảy may thì Thôi mỗ là hạng người gì mà sợ
không dám thổ lộ những điều kém cỏi của mình? Vậy tại hạ cũng xin đem
nguyên do
phải trốn vào phủ Trấn Nam Vương tường trình bệ hạ cùng
Vương gia. Nơi đây chẳng có ai là người ngoài, tại hạ cũng xin nói hết
để các vị suy xét.
Thôi Bách Kế còn lấm lét, nghển cổ trông ra phía ngoài cửa sổ, uống luôn hai chén trà thấm giọng rồi nói tiếp:
-Việc
này xảy ra từ mười tám năm trước đây. ở trong thành Vô ô quân, có một
tên thổ hào họ Thái là người trọc phú bất nhân, áp chế dân lành. Một
người bạn của sư huynh tôi bị y hãm hại, toàn gia đều chết dưới bàn tay
tên thổ hào đó.
Quá Ngạn Chi ngắt lời hỏi:
-Sư thúc! Có phải sư thúc nói tên tặc tử Thái khánh Ðồ đó không?
Thôi Bách Kế tiếp:
-Ðúng
rồi ! Sư phụ mi mỗi khi nhắc tới tên Thái Khánh Ðồ lại nghiến răng căm
hờn, có điều sư phụ mi là người tốt, chỉ biết an thân thủ phận.
Ông có làm cáo tạng lên kêu quan mấy lần nhưng đều bị Thái Khánh Ðồ đem tiền hối lộ để quan nha
ỉm
đi. Nếu sư phụ mi dùng nhuyễn tiên giết Thái Khánh Ðồ thì là một việc
rất dễ dàng, song ông không chịu làm việc gì phạm pháp. Còn Thôi mỗ trái
lại, trộm gà,bắt chó, đĩ bợm, cờ bạc, giết người đốt nhà không từ việc
gì hết.
Một đêm kia, Thôi mỗ nóng tiết, mò vào nhà Thái Khánh Ðồ, giết sạch toàn gia y hơn 30 người.
Tôi
giết từ cổng giết vào, thẳng tới vườn hoa ở phía sau. Cả đến những
người coi vườn nữ tỳ cũng không để sót một mống nào. Khi vào đến giữa
vườn hoa, bỗng thấy trên cửa sổ một toà lầu nhỏ có ánh đèn lọt ra. Tôi
chạy tuốt lên lầu, đạp tung cửa vào thì thấy đó là một chư phòng, những
giá gác xung quanh xếp toàn sách vở, hoạ đồ.
Một đôi nam nữ thanh
niên, ngồi sánh vai nhau bên bàn đang mở sánh xem. Thanh niên chừng 28
tuổi, phong độ thanh tao hoà nhã. Thiếu nữ còn ít tuổi hơn, ngồi quay
lưng ra ngoài nên tôi không nhìn rõ diện mạo. Nàng mặc áo mỏng mầu lục
nhạt, dưới ánh đèn lấp lánh trông rất thanh nhã. Con mẹ nó...
Thôi
Bách Kế vốn dĩ nói năng rất văn hoa, trái ngược hẳn với hành vi trong
lúc bình thường. Không ngờ bây giờ lại đột nhiên văng một câu chửi tục
ra, mọi người đều lấy làm ngạc nhiên.
Thôi Bách Kế không để ý tiếp tục kể:
-Tôi
giết một hơi ba mươi mấy người, đang lúc hứng bỗng thấy đôi trai gái
chó chết này, con mẹ nó, tôi rất lấy làm kỳ vì những người trong nhà
Thái Khánh Ðồ toàn là một giống thô lỗ hung dữ, sao lại mọc ra đôi nam
nữ thanh tú này? Phải
chăng là Trương Quân Thuỵ và Thôi Oanh Oanh trong vở kịch? Tôi đứng ngẩn người ra nhìn hồi lâu, không muốn ra tay hạ sát.
Về Đầu Trang Go down
Oz Vessalius
Tướng Quân
Tướng Quân
Oz Vessalius

Tổng số bài gửi : 95
Điểm Thưởng : 5149
Độ Tin Tưởng : 104
Join date : 05/01/2011

Thiên Long Bát Bộ - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ   Thiên Long Bát Bộ - Page 2 I_icon_minitimeThu Jan 06, 2011 5:22 pm

Hồi 23

Quần Hùng Khiếp Vía




Ðoàn Dự nghe Thôi Bách Kế kể tới đây, trong bụng nhẩm tính:
"thằng nhỏ 12,13 tuổi mà Huỳnh Mi tăng gặp cách đây bốn mươi ba năm với
thanh niên Thôi
Bách Kế gặp trước đây mười tám năm không thể là một người vì thằng nhỏ kia tới ngày đó đã lớn tuổi hơn nhiều".
Thôi Bách Kế kể tiếp:
-Trong lúc tôi đang ngẩn người ra, bỗng nghe người thanh niên hỏi: "Nương tử!
Từ "quy muội" đến "vô vọng" bày hàng thế này có đúng chăng?".
Ðoàn Dự nghe đến "quy muội", "vô vọng" biết ngay là thanh niên nói những quẻ trong kinh dịch.
Thôi Bách Kế kể tiếp:
-Người
đàn bà trầm ngâm một lúc rồi đáp: "Cần phải khởi từ góc Ðông Bắc đi xéo
sang "minh di" rồi lại quay về "tốn vị", chàng coi có thể đi thông suốt
được chăng?".
Ðoàn Dự giật mình ngắt lờ i:
-Những lời thiếu phụ
nói đó rõ ràng là ở trong phép Lăng Ba Vi Bộ có điều vị trí hơi lệch lạc
chưa đúng hẳn. Chẳng lẽ thiếu phụ này lại có liên quan đến pho tượng
thần ở trong thạch động kia?
Thôi Bách Kế hoàn toàn không hiểu gì về câu hỏi của Ðoàn Dự, tiếp tục kể :
-Tôi
thấy vợ chồng cứ giảng luận sách vở hoài, nóng ruột không nhịn được
nữa,lớn tiếng quát: "Cặp trai gái chó dẻ này! mẹ chúng bay! Ta cho chết
hết". Không ngờ hai người đó giả điếc, vờ như không nghe thấy, mắt vẫn
nhìn vào sách, người vợ lại hỏi nhỏ chồng: "Từ chỗ này tới "tốn vị" mà
chín bước thì làm sao mà đi tới được?".
Tôi lại quát mắng: "Ði đi...
đi xuống cõi âm để gặp ông tổ 18 đời nhà mi à?". Dứt lời tôi toan nhẩy
đến, thì thốt nhiên người chồng cả cười vỗ tay reo: "Hay lắm! Hay lắm!
âm tức là quẻ "khôn", ông tổ mười tám đời, phải lắm, 9 lần 2 là
mười tám, bộ này chuyển đến "khôn vị" được. Thế là bộ pháp chỗ này ta thông hiểu được cả".
Ðoạn
người chồng thuận tay chụp xuống chiếc bàn tính trên ngăn sách, không
hiểu gã làm thế nào, đột nhiên ba con toán bay vút ra. Tôi cảm thấy
trước ngực đau nhói, người mình như bị đóng đinh xuống, không nhúc nhích
được nữa. Hai người vẫn chẳng thèm nhìn đến tôi, lại tiếp tục bàn luận
nghĩa sách.
Tôi nghe chẳng hiểu gì cả, trong lòng sợ hãi không biết
đến đâu mà kể. Sở dĩ người ta tặng tôi cái ngoại hiệu "Kim toán bàn" vì
lúc nào tôi cũng mang theo một chiếc bàn tính đúc bằng hoàn kim. Trong
đó có 17 con toán, chuyên dùng vào việc đả thương địch thủ khi cần đến.
Có điều trong bàn tính của tôi phải đặt máy móc,dùng sức đẩy bằng lò xo.
Còn bàn tính của người này chỉ là cái bàn tính thường làm bằng gỗ đỏ.
Tôi
nhìn kỹ lại thì thấy một cái suốt tre ở giữa bàn tính của gã đã gẫy làm
mấy đoạn. Rõ ràng đã dùng nội lực bẻ gãy chiếc suốt đó, đồng thời dùng
nội lực bắn con toán ra, kỹ thuật gã tới mức độ thật không ai có thể
tưởng tượng được.
Hai người đàm luận càng hứng thú bao nhiêu thì tôi
càng sợ hãi bấy nhiêu,nghĩ thầm: "mình vừa mới gây nên huyết án, giết
hết ba mươi mấy mạng trong nhànày. Bây giờ người bị cứng đờ, đứng trơ
trơ ở đây, cử động không được, nói không ra lời. Ðã đành giết người khác
đến thường mạng là cùng, có chết cũng chẳng oan nhưng e rằng thế tất
nhiên phải liên luỵ đến sư huynh, điều đó làm tôi rất băn khoăn. Bị cầm
chân hàng hai trống canh thật là cơ cực, cơ cực hơn 20 năm chịu khổ
hình. Mãi đến lúc bốn bề xao xác tiếng gà gáy, người chồng mới vui vẻ
bảo vợ:
"Mấy bộ pháp trước mình tưởng hôm nay không thể nào nghĩ ra
được. Bây giờ chúng ta đi thôi chứ?". Người vợ đáp: "Kim toán bàn Thôi
lão sư đã giúp huynh nghĩ ra được một bộ pháp kỳ diệu, vậy cũng nên tạ
ơn vị đó mới phải chứ?". Tôi vừa mừng vừa sợ, không hiểu sao họ lại biết
cả tính danh mình. Người chồng nói tiếp: "Ðã thế thì để cho y sống thêm
mấy năm nữa. Lần sau gặp ta sẽ kết liễu tính mạng y". Ðoạn hai người
thu nhặt sách vở, cầm tay nhau từ trong cửa sổ nhảy ra.
Tướng mạo
người đàn bà thế nào thuỷ chung tôi vẫn không thấy rõ, chỉ có lúc ra đi
nàng đưa tay trái về phía sau lưng tôi phất nhẹ để giải huyệt cho.
Tôi
cúi đầu xuống nhìn thì thấy vạt áo trước ngực mình bị thủng ba chỗ, hai
con toán đã lặn vào bên trên hai vú và một con nữa lặn vào chỗ chính
giữa. Ba con toán song song một hàng và phân khoảng rất đều, tưởng lấy
thước đo mà đặt vào chưa chắc đã đúng được thế. Ðây các vị thử coi xem!
Nói
xong Thôi Bách Kế liền cởi áo ra, mọi người trông thấy đều không nhịn
cười được. Ba con toán lặn sâu vào trong thịt thành một hàng thẳng tắp,
phân quãng rất đều ở trước ngực mà không hiểu sao không tìm cách lấy ra.
Thôi Bách Kế lắc đầu, cài lại khuy áo rồi nói tiếp:
-Ba
con toán lặn sâu vào trong da người là một tội khổ cực không gì bằng.
Tôi định dùng giao nhọn khoét lấy ra nhưng đấy là những huyệt đạo, chỉ
động tới một chút là ngất xỉu ngay tức khắc, mà phải lâu đến hàng 12 giờ
chưa tỉnh lại được.
Còn lấy giũa hay giấy ráp mà mài cọ dần thì cũng
đau đến phải la làng. Tội nghiệp này không có khác gì oan hồn ám ảnh
suốt đời. Mỗi khi thời tiết thay đổi, mưa gió thất thường chỗ đó lại
càng đau nhức không thể nào chịu được.
Thôi Bách Kế thở dài nói tiếp:
-Gã
thanh niên ấy còn bảo: "Lần sau gặp y nữa là phải chết". Mạng mình mình
phải giữ, khi nào để cho y kết liễu? Nhưng nếu vô phúc chạm trán y thì
đừng có mà hòng sống sót. Muốn bảo toàn tính mạng chỉ có cách duy nhất
là đừng để cho hắn bắt gặp nên bất đắc dĩ phải cao chạy xa bay, thay đổi
họ tên, trà trộn vào làm người giúp việc trong phủ Trấn Nam Vương.
Tôi
vẫn đinh ninh rằng nước Ðại Lý ở tận góc trời nam, hẻo lánh những nhân
vật võ lâm ở Trung Nguyên chẳng mấy khi đến đây, vạn nhất mà quân chó đẻ
đó có đến tìm, thì nơi đây còn có Ðoàn Vương gia, Cao Hầu và Lăng bằng
hữu, bao nhiêu tay cao thủ, chẳng lẽ cứ giương mắt ra mà nhìn, để mặc
cho y giết tôi sao? Ba con toán oan nghiệt này khảm vào trong người tôi,
mỗi khi đau lên chỉ còn cách uống rượu say bí tỷ mê man cho quên đi mà
thôi, bao nhiêu hùng tâm tráng chí, danh vọng vứt mẹ nó ra ngoài chín tầng mây.
Mọi
người đều thấy rằng cuộc tao ngộ của Huỳnh My tăng và Thôi Bách Kế đại
khái giống nhau, chỉ khác ở phần tiểu tiết mà thôi, một người xuất gia
tu hành, một người mai danh ẩn tích.
Ðoàn Dự thốt nhiên hỏi:
-Hoắc tiên sinh! (chàng quen miệng vẫn gọi thế). Sao tiên sinh biết đôi vợ chồng đó là Mộ Dung thị?
Thôi Bách Kế gãi đầu đáp:
-Ðây
là do sư huynh tôi nghĩ ra. Sau khi tôi bị nạn ba con toán rồi tôi về
bàn với sư huynh tôi thì người cho là: tất cả các phái võ lâm riêng nhà
Mộ Dung mới dùng cái lối "gậy ông đập lưng ông". Cúng tôi tự lượng,
không thể đối chọi được với các gia đình mà nhân vật toàn là yêu mà quỷ
quái đó, chỉ có cách tránh đi là yên, đành làm cái kiếp con rùa rụt cổ
vậy.
Thôi Bách Kế quay lại nói với Ðoàn Chính Thuần:
-Ðoàn vương
gia! Sự tình tôi đã bộc bạch cả rồi. Vậy bây giờ xin kiếu đi tìm Mộ Dung
thị đây. Sư huynh tôi với tôi khác nào tình ruột thịt, cái thù giết anh
nhất định phải báo.
Ðoạn quay sang bảo Quá Ngạn Chi:
-Sư điệt! Chúng ta đi thôi.
Thôi
Bách Kế cùng Quá Ngạn Chi vái chào mọi người rồi cùng cất bước lên
đường. Mọi người đều ngạc nhiên trước thái độ thay đổi bất ngờ của Thôi
Bách Kế.
Lúc trước đối với nhà Mộ Dung sợ hãi là thế, song nhắc đến
sự báo thù cho sư huynh, biết rõ ra đi phen này tất chết mà vẫn quả
quyết không chút rụt rè nên mọi người đều đem lòng kính trọng và cũng
không tiện ngăn cản nữa.
Tuệ Chân hòa thượng đứng lên cung kính nói với anh em họ Ðoàn:
-Chưởng
môn nhân, sư bá của tệ phái có gửi lời bẩm cùng liệt vị Bảo Ðịnh Hoàng
Ðế là bậc chí tôn không dám làm phiền nhọc đại giá nhưng nếu được Trấn
Nam Vương đến tệ xá mà chỉ giáo phương sách đối phó với nhà Mộ Dung cho
thì thực là phúc lớn cho võ lâm. Sư bá tôi lại nói thêm: đáng lý ra
người phải thân hành đến lãnh giáo ý kiến Ðoàn hoàng gia mới phải, ngặt
vì trong chùa đã phái sư huynh đi mời các bậc cao thủ khắp nơi về hội
họp tại chùa Thiếu Lâm. Sư bá tôi là chủ nhân không dám đi đâu, phải túc
trực ở nhà để đón tiếp các vị anh hùng thiên hạ cho khỏi mang tiếng
thất kính.
Ðoàn Chính Thuần nghĩ bụng: "Thiếu Lâm tự mở cuộc đại hội
anh hùng, đó là một cơ hội tốt hiếm có. Ði dự cuộc họp với khắp các nhân
vật trong võ lâm ở Trung Nguyên là một điều rất hứng thú". Ông có ý
muốn đi liền đưa mắt nhìn Bảo Ðịnh Ðế, chờ huynh trưởng phát lạc.
Bảo Ðịnh Ðế nghiêm trang trả lời:
-Họ
Ðoàn chúng tôi nguyên cũng ở trong võ lâm tại Trung Nguyên ra, mấy trăm
năm nay không bao giờ dám vong bản. Các bạn võ lâm từ Trung Nguyên đến
Ðại Lý, chúng tôi đều đón tiếp nồng hậu. Duy có một điều: tổ tiên họ
Ðoàn tôi đã có di chúc dặn con cháu không được tham dự vào những cuộc tư
thù, chém giết giữa các phái võ. Ðoàn Chính Minh này lâu nay hằng
ngưỡng mộ Huyền Bi đại sư về nhân cách cũng như về võ công. Tuy nhiên
đối với việc đại sư dặn bảo đây, trái với gia quy tổ tiên chúng tôi nên
không thể tuân mệnh được. Mong sư huynh chuyển lại lời cùng Huyền Bi đại
sư lượng thứ cho.
Tuệ Chân thất vọng, không biết nói thế nào thì đột nhiên Tuệ Thiền quỳ hai gối xuống, khẩn cầu:
-Trấn
Nam Vương tới Thiếu Lâm tự, không phải là chúng tôi dám mong ngài trực
tiếp chiến đấu với bọn Mộ Dung đâu. Vương gia là bậc lá ngọc cành vàng,
đâu có thể khinh xuất mạo hiểm được? Có điều là võ công của bọn Mộ Dung ở
Cô Tô kỳ diệu khôn lường. Gia sư mời các bậc anh hùng tới, không phải
chủ ý nhiều người để nắm lấy phần thắng, mà chỉ mong tập hợp nhiều ý
kiến cho thêm phần bổ ích. Góp nhặt những điều sở trường của các phái để
cùng Mộ Dung so tài cao thấp.
Họ Ðoàn nước Ðại Lý là một phái võ
chính tông về môn Nhất Dương Chỉ ở miền Nam, anh hùng trong bốn bể ai
cũng nghe danh và đem lòng kính ngưỡng. Trong cuộc đại hội anh hùng tại
chùa Thiếu Lâm nay mai, nếu họ Ðoàn nước Ðại Lý không đến dự là một điều
khiếm khuyết rất lớn. Chúng tôi e rằng sẽ không có tay địch thủ được
với gia đình họ Mộ Dung.
Bảo Ðịnh Ðế phất tay áo một cái, mép tay áo khẽ lướt qua bả vai Tuệ Thiền.
Tuệ
Thiền cảm thấy có một làn hơi êm dịu và hùng hậu nâng vai mình lên. Lão
tự nhiên không tự chủ được, đứng phắt dậy, trong lòng rất là khâm phục
la lên:
-Hoàng gia! Nội công Hoàng gia thật là tuyệt diệu.
Bảo Ðịnh Ðế ôn tồn nói:
-Thiền
sư mới từ xa tới, còn đương mệt nhọc, hãy xin mời vào trong sảnh đường
dùng cơm và nghỉ ngơi chút đã. Tại hạ được nghe chuyện hung tin của tôn
sư trong lòng rất thương tiếc. Nhưng họ Ðoàn tôi không thể đặt mình vào
trong vòng ân oán của võ lâm được, vì tổ tiên đã có minh huấn để lại,
xin lượng thứ cho!
Lời Bảo Ðịnh Ðế tuy khiêm tốn ôn hoà song là lời
tuyên bố của bậc chí tôn, tỏ ra tâm ý quyết định rồi, dù có khẩn cầu mấy
cũng vô ích nên Tuệ Chân và Tuệ Thiền đành cáo từ ra đi.
Lúc đó trong nhà đại sảnh còn lại toàn người trong nước. Ðoàn Chính Thuần hỏi Bảo Ðịnh Ðế:
-Hoàng
huynh! Cô tô Mộ Dung nếu quả có kỹ thuật thần diệu như thế thì tiếng
tăm phải lừng lẫy thiên hạ mới phải, vậy mà sao trong võ lâm ít khi nghe
thấy ai nhắc tới?
Bảo Ðịnh Ðế đáp:
-Một là vì họ ít hành động, hai là lúc tranh đấu với ai, không thổ lộ đúng họ tên.
Ngay như việc xung đột với hai phái Thiếu Lâm và Tung Sơn cũng chưa biết rõ người đối đầu là ai cả.
Huỳnh Mi tăng cũng nói:
-Chính
Minh không chịu tham dự vào cuộc rắc rối này thật là cao kiến. Việc này
khởi phát ra e rằng sẽ thành một cuộc tranh phong đẫm máu giữa các phái
võ, sát hại không biết bao nhiêu nhân mạng đây. Nước Ðại Lý ta mấy năm
nay quốc thái dân an, nếu họ Ðoàn đi dự cuộc đại hội ở Thiếu Lâm, sau
này tất có những nhân vật võ lâm ở Trung Nguyên sẽ tìm đến Ðại Lý, khiêu
khích sinh sự mãi mãi, không bao giờ dứt được.
Ðang lúc nói chuyện thốt nhiên có tên vệ sĩ vào bẩm:
-Trình Vương gia, ở cổng ngoài có vị đạo trưởng xin vào tham kiến. Người nói là cố nhân ở núi Thiên Thai tới thăm bạn cũ.
Ðoàn Chính Thuần vui vẻ nói với Bảo Ðịnh Ðế:
-Hoàng huynh! Thạch Thanh Tử đạo huynh đã đến.
Nói xong liền chạy ra nghênh tiếp. Bảo Ðịnh Ðế và Huỳnh Mi tăng nhìn nhau,tự nhiên thấy Huỳnh Mi tăng đứng dậy nói:
-Lão tăng lánh mặt đây.
Bảo Ðịnh Ðế mỉm cười đáp:
-Những ý nghĩ giận hờn trước kia, đến bây giờ mà sư huynh vẫn còn giữ mãi à?
Huỳnh Mi khẽ nhếch mép cười nói tiếp:
-Phật
pháp tinh diệu, chính quả khó thành. Khi lão tăng khám phá ra được manh
mối vượt khỏi chữ "sân", tức là lúc từ giã Ðoàn huynh rồi đó.
Nói
xong đứng dậy ra khỏi nhà khách sảnh, đi thăm bệnh tình sáu đồ đệ. Một
lát nghe tiếng cười oang oang từ cửa đưa vào, Bảo Ðịnh Ðế liền đứng dậy
chờ.
Ðoàn Chính Thuần và một vị đạo nhân dẫn tay nhau bước vào. Ðạo
nhân đội mũ, mặc áo vàng, da sáng như ngọc, phong độ thanh nhã như thần
tiên dưới thế. Ðạo nhân cúi đầu chào Bảo Ðịnh Ðế và nói:
-Chính Minh ca ca! Bấy lâu nay ca ca phú quý tôn vinh, đại hưởng thanh bình hạnh phúc lắm đa.
Bảo Ðịnh Ðế khoanh tay đáp lễ và mỉm cười trả lời:
-Anh chàng mũi trâu kia bôn tẩu giang hồ mãi mãi vẫn chưa dạn mặt phong trần nhỉ.
Thạch Thanh Tử cười khanh khách nói tiếp:
-Chưa
chưa! Kìa anh Thăng Thái! Mạnh giỏi chứ? còn anh chuyên đào mả trộm gần
đây có phát tài không? Phạm huynh vẫn tươi đẹp như thường, thêm được
mấy vị cô ng tử nữa rồi? Anh chàng Thiên Thạch để nổi danh mỗi ngày một
gày đét để nổi danh "Thiên hạ đệ nhất khinh công" kể cũng vinh dự lắm
đấy! Lại còn anh chàng câu cá này nữa! đã câu được con rùa to nào chưa?
Thạch
Thanh Tử gọi tên từng người ngồi trong khách sảnh, hỏi đùa giỡn như bạn
cố tri một cách rất thân mật, không câu nệ lễ phép chút nào.
Ðoàn Dự
biết rõ tính bá phụ hòa nhã nhưng chưa bao giờ nghe thấy ông nói đùa
cợt với ai cả. Bây giờ vị đạo nhân này tới, làm cho bầu không khí vui
tươi hẳn lên,đến bá phụ cũng gọi đùa đạo nhân là "chàng mũi trâu". Thế
mới biết Thạch Thanh Tử quả khéo khôi hài và nói chuyện rất có duyên.
Ðoàn Chính Thuần gọi bảo Ðoàn Dự:
-Con
mau chạy ra lạy chào đạo trưởng đi! Vị này là "Ðông Phương đệ nhất
kiếm" Thạch Thanh Tử mà thường nhật ta vẫn nhắc tới đó. Người tinh thông
kiếm pháp, có thể là "đệ nhất kiếm pháp" thời nay vậy.
Thực ra Ðoàn Dự chưa từng nghe phụ thân nhắc tới tên vị này bao giờ. Song bây giờ không tiện hỏi, chàng vâng lệnh tới lạy chào.
Thạch Thanh Tử vui vẻ khen:
-Cha
nào con nấy, quả là một nhân vật phong lưu tuấn tú. Tử đệ nhà họ Ðoàn
nước Ðại Lý, một nhà võ học uyên thâm, chắc võ công công tử phải cao
siêu lắm.
Thạch Thanh Tử vừa dứt lời liền đưa tay đỡ Ðoàn Dự đứng lên
nhưng trong tay đã vận chút ít nội lực chủ ý thử xem võ công Ðoàn Dự đã
tới mức nào.
Ðoàn Dự vội kêu lên:
-Xin đạo trưởng nới tay, cháu chưa học võ công đâu.
Ðoàn
Dự nói chưa dứt lời thì hai tay Thạch Thanh Tử đã chạm vào bàn tay Ðoàn
Dự. Ðột nhiên ông giật mình đánh thót một cái. Kình lực vừa phát ra
phút chốc đã biến mất tăm dạng, chẳng khác gì hòn đất quẳng xuống biển,
thấy trong tay Ðoàn Dự có một hấp lực rất mạnh hút cuồn cuộn lấy nội lực
trong người mình.
Thạch Thanh Tử đi di lịch khắp thiên hạ, thấy
nhiều hiểu rộng, sau khi kinh hoàng miệng lẩm bẩm: "Ðây là môn hoá công
đại pháp của phái Tinh Tú Hải ở núi Côn Luân. Họ Ðoàn nước Ðại Lý là một
chính phái tiếng tăm lừng lẫy, sao lại để con cháu luyện môn tà thuật
này? một môn mà hết thảy võ lâm đều thống hận, ghê tởm". Ông liền ngưng
tụ kình lực, lật hai bàn tay đập mạnh vào trên mu bàn tay Ðoàn Dự mới gỡ
được tay ra, khỏi bị dính chặt vào tay chàng.
Ðoàn Dự cảm thấy hai
tay đau nhói, tựa hồ xương tay bị gẫy nát, chàng đem lòng oán hận Thạch
Thanh Tử, lẩm bẩm một mình: "Lão này tệ thật, mình có nhã ý ra lạy chào
lão mà lão lại trở mặt đánh mình đau thế này".
Chàng có hiểu đâu
rằng Thạch Thanh Tử tưởng lầm là chàng đem tà thuật hại ông. Ông biết
môn "hoá công đại pháp" có một ma lực ghê gớm, một người luyện võ suốt
đời tâm khổ mới thành tài, nhưng chỉ trúng tà pháp này thì bao nhiêu nội
công, ngoại lực đều mất hết, trở thành người không biết một chút võ
công nào nữa. Có điều người dùng môn tà
thuật đó tuy làm tổn hại cho
người nhưng cũng chẳng bổ ích gì cho mình cả. Khác với sức "chu cáp thần
công" trong người Ðoàn Dự, mỗi khi đụng vào ai thì nó hút lấy nội lực
người đó nhập vào nội lực của mình và cứ mỗi lần tiếp xúc như thế nội
lực lại tăng thêm. Vừa rồi một ít nội lực của Thạch Thanh Tử cũng đã bị
chuyển sang người chàng.
Bọn Bảo Ðịnh Ðế thấy trạng thái Thạch Thanh Tử có vẻ khác lạ đều lấy làm kinh ngạc.
Ðoàn Chính Thuần sợ Thạch Thanh Tử dùng độc thủ đánh con mình,tức khắc bước tới gần, mỉm cười nói:
-Anh chàng mũi trâu này lâu lắm mới gặp nhau, định dùng món quà gì để tặng cho con tôi đó?
Ðoàn
Chính Thuần vừa nói vừa vận dụng nội lực để dự bị đối phó. Vì Thạch
Thanh Tử không những về kiếm thuật đã lừng danh bốn bể mà cả về môn nội
công quyền cước Thạch cũng là một tay trác tuyệt. Nếu để Ðoàn Dự bị
trúng một đòn,thì dù chẳng chết cũng bị trọng thương.
Thạch Thanh Tử cười nhạt hỏi:
-Họ
Ðoàn ở nước Ðại Lý, riêng về môn Nhất Dương Chỉ cũng đã nổi tiếng với
thiên hạ hãy còn chưa đủ à? Sao còn phải cho con đi học môn tà thuật của
Tinh tú
Hải lão ma làm gì?
Ðoàn Chính Thuần ngạc nhiên hỏi:
-Có phải anh nói môn tà thuật "hoá công đại pháp" đó chăng? ai học môn ấy?
Thạch Thanh Tử đáp:
-Anh để lệnh lang đi vào con đường bàng môn tả đạo mà không sợ làm ô uế thanh danh họ Ðoàn nước Ðại Lý ư?
Ðoàn Chính Thuần lại càng kinh ngạc cho là Thạch Thanh Tử ám chỉ môn phái Nam Hải Ngạc Thần nên mỉm cười nói tiếp:
-Nam
Hải Ngạc Thần tuy cố ý thu nạp con tôi làm đồ đệ nhưng ngờ đâu trái lại
y phải nhận con tôi làm thầy. Dù sao chỉ là chuyện đùa chứ đâu phải sự
thực?
Thạch Thanh Tử lắc đầu đáp:
-Nam Hải Ngạc Thần cố nhiên là một phái võ có sở trường riêng nhưng y có biết gì về môn "hoá công đại pháp"?
Ðoàn Chính Thuần có vẻ bực bội hỏi:
-Anh chàng mũi trâu này chỉ có một điều "hoá công đại pháp" hai điều "hoá công đại pháp", định giở trò ma quỷ gì đây?
Thạch
Thanh Tử có biết đâu đến chuyện Ðoàn Dự có "chu cáp thần công" trong
mình? Chẳng những Bảo Ðịnh Ðế cùng vợ chồng Ðoàn Chính Thuần không hay
mà chính chàng cũng không hiểu nốt. Thạch Thanh Tử cho là Ðoàn Chính
Thuần lừa bịp mình, nên đứng phắt dậy, giận dỗi nói:
-Hai vị Ðoàn
gia! Thạch mỗ tuy mây ngàn hạc nội, phiêu bạt giang hồ nhưng hai bàn
chân không phải là sắt, lẽo đẽo từ Giang Nam đến Ðại Lý, đâu có phải vì
một chén thanh trà? Các vị đã không coi tôi là bạn thì thôi, tôi xin cáo
biệt.
Nói xong quay gót đi liền.
Bảo Ðịnh Ðế mỉm cười bảo Hoa Hách Cấn và Ba Thiên Thạch:
-Hai
người ra giữ lấy anh chàng mũi trâu lại! Bắt gã phải nói cho vỡ lẽ? Vì
lý do gì đã vì tình bạn hữu qua chơi nước Ðại Lý, lại chưa ăn uống no
say đã trở gót?
Ðâu có thể để gã ra đi một cách dễ dàng thế được?
Hoa Hách Cấn và Ba Thiên Thạch cùng là bạn với Thạch Thanh Tử nên đều cười khanh khách, nhảy ra chặn cửa.
Hoa Hách Cấn nói:
-Thạch
đạo trưởng! Ðạo trưởng qua chơi nước Ðại Lý mà không mang theo trường
kiếm, đủ tỏ là đạo trưởng có thịnh tình và giữ thể diện cho bên Hoàng
gia chúng tôi nhưng cũng vì thế mà đạo trưởng muốn qua khỏi cửa này
không phải
chuyện dễ dàng.
Thạch Thanh Tử thấy mặt mọi người đều
không có gì là kình địch nên trong lòng nghĩ lại: "cứ như địa vị và danh
vọng họ Ðoàn quyết nhiên không chịu để cho con cháu luyện môn tà thuật ô
uế của Tinh tú Hải hay là Ðoàn Dự đã học lén và giấu cả cha, bác chăng?
nếu mình nói toạc ra e lại kết oán với Ðoàn Dự. Có điều mình đối với
Bảo Ðịnh Ðế và Ðoàn Chính Thuần là chỗ thâm giao, chẳng lẽ biết mà không
nói?".
Nghĩ vậy Thạch Thanh Tử liền quay lại, nghiêm nét mặt nói với Ðoàn Dự:
-Ðoàn
công tử ơi! Thạch mỗ dù chẳng có ra gì chăng nữa cũng vẫn là vai trên
công tử. Hôm nay ta có câu chuyện nói ra hơi khó nghe song vì muốn giữ
danh diện cho lệnh bá và lệnh tôn nên buộc lòng ta phải nói. Xin công tử
miễn trách.
Ðoàn Dự vội đáp:
-Thạch đạo trưởng có điều chi dạy bảo, Ðoàn Dự xin cung kính tuân theo.
Thạch Thanh Tử nghĩ thầm:
-Thằng lỏi con này giả vờ khéo đây! nó làm ngây như thật!
Nghĩ vậy Thạch Thanh Tử hỏi luôn:
-Ðoàn công tử học "hoá công đại pháp" được mấy năm rồi? Phải chăng lệnh sư là một vị chân nhân dưới trướng Tinh Tú Hải lão ma?
Ðoàn Dự tuyệt nhiên không hiểu câu hỏi ra sao, chàng hỏi lại:
-Trưởng lão nói sao? "hoá công đại pháp" rồi Tinh Tú Hải lão ma là chi vậy?
Vãn sinh hôm nay mới được nghe trưởng lão nói là một.
Thạch
Thanh Tử lại cho là người truyền thụ môn này cho Ðoàn Dự cố ý giấu kín
về lai lịch môn phái và giấu luôn cả tên gọi môn võ công đó chăng? Ðạo
nhân hỏi tiếp:
-Vậy người truyền môn này cho công tử tướng mạo thế nào?
Ðoàn Dự đáp:
-Vãn sinh chưa từng học qua môn võ nào cả.
Giữa
lúc đó, Huỳnh Mi tăng từ nội đường xăm xăm chạy ra, nắm lấy tay phải
Ðoàn Dự. Nhưng vừa chạm vào tay chàng, nhà sư cảm thấy người run bần bật
và nội lực trong mình cứ thế tuôn ra, không sao hãm lại được. Tức quá
ông liền co chân đá Ðoàn Dự bắn đi lăn long lóc.
Mọi người thấy vậy, sợ tái xanh mặt, nhất tề đứng dậy hỏi:
-Chi vậy? Chi vậy?
Huỳnh Mi tăng đáp:
-Hai vị Ðoàn huynh! Các vị có đánh chết thằng nhỏ này không? Hay để cho lão tăng phải ra tay?
Giọng
nói nhà sư run lên vì tức giận, những thớ thịt trên mặt giật lên trông
rõ. Sở dĩ Huỳnh Mi tăng có hành động này là vì sáu đồ đệ sau khi tỉnh
lại đã kể rõ cho biết chuyện họ bị Ðoàn Dự hút hết cả nội lực, nên sự
xét đoán của Huỳnh Mi tăng hoàn toàn giống Thạch Thanh Tử và cho là
chàng đã học môn "hoá công đại pháp" của Tinh Tú Hải. Huỳnh Mi tăng lại
còn bực mình ở chỗ Ðoàn Dự còn đem oán trả ơn, làm hư hoại nội lực cả
sáu đồ đệ ông, rồi lúc chính ông chạm vào tay Ðoàn Dự lại cảm thấy rõ
công lực của mình cũng bị hao tổn, thế là ông tin chắc, không còn nghi
ngờ gì nữa.
Thoạt mới nghe Thạch Thanh Tử nói, Bảo Ðịnh Ðế lấy làm kỳ
quái cũng cho là tính hạnh Thạch xưa nay vẫn ưa khôi hài, quen lối hoạt
kê, cố ý gây một trò cười,nhưng từ lúc thấy Huỳnh Mi tăng cử chỉ như
vậy nhà Vua mới biết là sự tình nghiêm trọng lắm.
Bảo Ðịnh Ðế đưa tay trái nắm lấy bàn tay Ðoàn Dự dắt dậy.
Hai
tay vừa chạm vào nhau, nhà vua cũng cảm thấy trong lòng xao xuyến và
nội lực cứ tiết ra ngoài, liền kìm hãm kình lực lại, phất mạnh tay áo
một cái, đẩy Ðoàn Dự lùi ra ba bước và quát hỏi:
-Mi học môn tà thuật này từ bao giờ?
Ðoàn Dự từ nhỏ tới lớn chưa bao giờ bị bá phụ tức giận quát mắng như thế, sợ quá quỳ mọp xuống lạy, bẩm:
-Cháu
chưa từng học môn võ công nào khác, ngoài phép Lăng Ba Vi Bộ. Nếu có
phải đó là một môn tà thuật ác độc thì... từ nay cháu không sử dụng đến
nó nữa,quên nó đi là xong.
Bảo Ðịnh Ðế vốn biết Ðoàn Dự có tính khí
cương trực, không hề nói dối bao giờ,hơn nữa đối với bá phụ vẫn có một
niềm kính mến, quyết không có lý do nào lại dùng tà thuật để hại bác,
tất có điều gì bí ẩn bên trong nên lại hỏi tiếp:
-Mi dùng tà thuật để tiêu tán mất công lực của ta, đó là tự ý mi hay là kẻ nào bắt buộc, đến nỗi không tự chủ được?
Ðoàn Dự lại càng kinh ngạc đáp:
-Cháu
không biết mảy may gì cả. Khi nào cháu dám dùng tà thuật làm tiêu tan
nội lực bá phụ? Cháu thực không hiểu một chút gì về tà thuật.
Từ lúc
Tuệ Chân và Tuệ Thiến mới đến, Thư Bạch Phụng giữ địa vị một bậc Vương
Phi, không tiện ra ngoài tiếp tân khách nên vẫn ngồi trong nhà. Sau khi
nghe báo Ðoàn Dự bị Huỳnh Mi tăng đá lăn đi và đang bị Bảo Ðịnh Ðế chất
vấn
nóng ruột quá mới chạy ra xem.
Bà thấy con đang quỳ dưới đất, nét mặt hốt hoảng lo sợ, trong lòng xiết bao thương xót, đưa tay cầm lấy cánh tay con khuyên nhủ:
-Ðoàn Dự! Con đừng lo! Có gì cứ trình rõ cho bá phụ... biết là xong...
Vừa chạm vào tay con, Thư Bạch Phụng đã cảm thấy nội lực cứ cuồn cuộn tiết ra, không sao kìm hãm lại được.
Bảo
Ðịnh Ðế đã biết trước và đề phòng, song giữa anh chồng với em dâu,
không tiện đưa tay ra nắm lại, chỉ dùng tay áo phất mạnh một cái, một
luồng kình lực phóng ra, tựa lưỡi sắt mỏng lách vào giữa, hai tay mẹ con
Ðoàn Dự tức khắc rời ra.
Thư Bạch Phụng vừa rút tay ra được kinh hoảng hỏi con:
-Mi... Mi...
Ðoàn Dự thấy mẫu thân lảo đảo lùi lại không hiểu ra sao, vừa toan chạy đến định đỡ cho mẫu thân đứng vững.
Ðoàn Chính Thuần gọi giật giọng:
-Dự nhi! Ðứng yên đấy!
Vừa
nói vừa nhảy vội đến, đứng xen vào giữa hai mẹ con Ðoàn Dự. Tới lúc này
thì mọi người đều thay đổi ý nghĩ, biết trong người Ðoàn Dự có cái gì
quái lạ,không ai còn nghi ngờ chàng đã học môn "hoá công đại pháp" để cố
ý làm hại
người nữa. Những vị này am hiểu thế cố, chỉ nhìn vào cử
chỉ và trạng thái Ðoàn Dự cũng biết chàng chẳng có mảy may gì là giảo
hoạt gian trá. Dù chàng có là kẻ đại gian, đại ác đến đâu chăng nữa,
cũng không có lý nào lại định làm hại đến cả mẫu thân được.
Cao Thăng Thái thốt nhiên nói với Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử:
-Tôi đố hai vị tìm ra được nguyên nhân vụ này và thi xem ai nói đúng trước là thắng.
Hai người trừng mắt lườm nhau một cái rồi đều gia công suy nghĩ.
Nguyên
trước kia Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử là đôi bạn rất thân nhưng có
một lần ngẫu nhiên tranh luận về hai giáo lý Phật và Ðạo rồi không bên
nào chịu bên nào. Cuộc tranh luận giáo lý đưa đến cuộc tỷ thí võ lực.
Mỗi bên đều có sở trường riêng, bất phân cao hạ. Sau còn đấu liên tiếp
mấy lần, cuối cùng đi tới chỗ cả hai người cùng suýt chết, may nhờ Bảo
Ðịnh Ðế dùng nội lực thượng thừa mới giải cứu được. Song cả ba người
cùng hao tổn công lực. Từ đó bên nhà sư và bên thầy đạo không trông mặt
nhau nữa. Không ngờ hôm nay lại gặp nhau tại phủ Trấn Nam Vương này.
Cao
Thăng Thái có ý định hoà giải cuộc đấu tranh vô vị giữa hai bên, chỉ
mong hai người nhân dịp này tỷ thí về kiến văn chứ không tỷ thí về võ
lực để phân rõ thắng phụ mà kết liễu cuộc tranh chấp đó đi. Song Cao
Thăng Thái là bạn thâm
giao với Thạch Thanh Tử, ra mục đề như thế
không khỏi có ý thiên lệch ở bên trong. Vì Thạch Thanh Tử là người đi
khắp đó đây tất lịch duyệt hơn. Trong một năm chả được mấy ngày thảnh
thơi ngồi nhàn, còn Huỳnh Mi tăng ở nơi hoang sơn, hẻo lánh kiến văn
bằng Thạch Thanh Tử thế nào được? Có điều Huỳnh Mi tăng cố nhiên là
không hiểu được rồi còn Thạch Thanh Tử thì ngoài sự suy tưởng cho là môn
"hoá công đại pháp" của Tinh Tú Hải ra cũng không sao tìm được câu giải
đáp nào khác nữa.
Ðoàn Chính Thuần từ hồi nào vẫn ngồi yên, bây giờ thốt nhiên tỏ vẻ phẫn nộ nói:
-Ðoàn
Dự trong lúc bị giam trong nhà đá nhất định bị Thanh Bào Khách dùng
dùng thứ chất độc ghê gớm gì đây, nên trong người có tà thuật mà y không
biết.
Bảo Ðịnh Ðế gật đầu đáp:
-Thuần đệ suy đoán rất có lý. Ðoàn Dự nhất định bị lão dùng thủ đoạn sâu độc gì chứ không thoát được.
Ðoàn Dự đáp:
-Có! Cháu bị hôn mê bất tỉnh, ít nhất cũng tới bốn, năm lần.
Ðoàn Chính Thuần vỗ tay nói:
-Ðúng
rồi, Thanh Bào Khách nhân lúc Dự nhi hôn mê đem tà thuật làm tiêu tan
công lực chuyền vào trong người nó. Thế là lão mượn tay Dự nhi để làm
hại những người chí thân trong nhà. Cái kế hiểm độc của lão làm cho tất
cả công lực của chúng ta đều bị huỷ hoại về tay Ðoàn Dự. Con người thâm
độc như thế hỏi ai không căm phẫn cho được?
Ðại ca! Việc này không thể chậm trễ. Ta phải nghĩ cách khử trừ tà thuật cho Dự nhi ngay.
Thư Bạch Phụng lại càng lo lắng, vội hỏi:
-Dự nhi! Con có thấy trong người bứt rứt khó chịu không?
Ðoàn Dự chau mày đáp:
-Khắp
trong người con chỗ nào cũng toàn chướng khí, chỗ nào cũng bị căng
thẳng muốn chết đi được vì không lối thoát ra ngoài, nó cứ chạy quẩn
trong người.
Lục phủ ngũ tạng dường như bị đảo lộn cả lên.
Mọi người thấy thế đều thương xót cho Ðoàn Dự, nhất là Thư Bạch Phụng tình mẫu tử lại càng thấm thía nên nói với Bảo Ðịnh Ðế:
-Thưa đại bá! Phải nghĩ cách nào để trừ độc cho Dự nhi mới được chứ!
Bảo Ðịnh Ðế đáp:
-Ðệ
muội hãy khoan tâm! Hai vị trước mặt ta đây: một tăng, một đạo đều là
nhân vật tiếng tăm lừng lẫy trong võ lâm, một ông mắng thằng bé hết lời,
một ông đá nó quay long lóc, tất nhiên họ phải lãnh trách nhiệm trị
bệnh, giải độc cho y.
Hai người đầu óc đang bận suy nghĩ tìm xem Ðoàn
Dự mắc phải tà thuật gì hay là trúng phải nọc độc nên chưa nghe thấy
lời Bảo Ðịnh Ðế vừa nói. Thốt nhiên Huỳnh Mi tăng reo lên:
-A ha! Phải rồi!
Ai nấy cả mừng chăm chú nhìn vào ông. không ngờ Huỳnh Mi tăng lại lắc đầu xua tay, cải chính:
-Nhưng
mà không đúng! Không đúng! Thứ thuốc độc đó chỉ có thể làm tiêu tan
được công lực bản thân người trúng thôi chứ không thể làm tiêu tan sức
mạnh của người khác.
Ðoạn lại thấy Thạch Thanh Tử vỗ đét vào đùi và nói:
-Nhất định là thế này rồi.
Cao Thăng Thái mừng rỡ hỏi:
-Thế nào?
Thạch Thanh Tử vẻ mặt hớn hở đáp:
-Trên núi Trường Bạch ngoài biển thuộc Liêu Ðông, có một cái đảo rắn...
Nói tới đây nét mặt vui mừng lạt dần, rồi biến thành thất vọng buồn thiu. Thạch Thanh Tử lắc đầu nói tiếp:
-Tôi nghĩ lầm rồi! Có một chỗ nói không xuôi được.
Trong toà khách sảnh lại im hơi lặng tiếng hồi lâu, không ai nói năng gì hết.
Trong
lúc bầu không khí nặng trĩu bao phủ thoáng nghe có tiếng chân bước lật
đật,một tên thái giám chạy từ ngoài vào đến cửa đã lên tiếng bẩm:
-Khải
tâu đức vạn tuế, có hai tên giả câm giả điếc, chúng dám viết những câu
đại nghịch bất đạo vào trước ngực, hiện đã bắt giữ, để ngoài cửa cung.
Bảo Ðịnh Ðế vừa nghe thấy bốn chữ: "giả câm giả điếc" chợt nghĩ ra điều gì hỏi lại:
-Người đó bị câm thật hay bị cắt lưỡi?
Thái giám đáp:
-Ðức vạn tuế thật là bậc thánh minh nhìn xa muôn dặm. Hai tên gian tế này quả là bị cắt lưỡi.
Bảo
Ðịnh Ðế đưa mắt nhìn Huỳnh Mi tăng cùng Thạch Thanh Tử và Ðoàn Chính
Thuần. Mọi người đều tự hỏi: "phải chăng lung á lão nhân cũng ra tay,
thế này thì lại càng thêm phiền cho mình".
Bảo Ðịnh Ðế quay sang bảo Ba Thiên Thạch:
-Ngươi ra mời hai người khách đó vào đây!
Ðược một lát Ba Thiên Thạch dẫn hai gã thanh niên chừng 18, 19 tuổi vào bẩm:
-Có sứ giả dưới trướng Thông Biện tiên sinh vào triều kiến bệ hạ.
Nguyên
Lung á lão nhân vừa điếc vừa câm nhưng lại mang ngoại hiệu Thông Biện
tiên sinh, ra điều tai ta tuy điếc nhưng lại nghe rõ hơn mọi người,
miệng ta tuy câm nhưng lại hùng biện hơn ai hết. Lung Á tiên sinh là một
nhân vật rất nổi
tiếng trong võ lâm, không thuộc phe tà mà cũng
không hẳn phe chính. Lão đã kết oán với ai thì suốt đời tranh đấu liên
miên. Nếu chưa làm được cho kẻ thù tàn tạ thì không bao giờ chịu thôi.
Vì thế những người trong võ lâm có võ công tương đương với lão, hoặc cao
hơn lão cũng xử nhũn với lão để tránh mọi sự phiền não.
Mọi người
thấy hai gã thanh niên khí vũ hiên ngang, diện mạo thanh tú, cùng mặc áo
bào trắng dài lượt thượt, trước ngực có viết hai hàng chữ: "Sứ giả dưới
trướng Thông Biện tiên sinh có việc báo cho Ðoàn Chính Minh tiên sinh
hay".
Khắp trong nước Ðại Lý ai cũng phải kiêng hai chữ Chính Minh
không được nhắc tới. Bây giờ thấy hai gã này dám công nhiên viết "Ðoàn
Chính Minh tiên sinh" vào trước ngực nên một nhóm triều thần và thái
giám cho là kẻ đại nghịch bất đạo.
Bảo Ðịnh Ðế tủm tỉm cười nói:
-Thông Biện tiên sinh gọi ta bằng tiên sinh, thế cũng là nể ta lắm đó.
Hai thanh niên tới trước mặt Bảo Ðịnh Ðế chỉ vái chào chứ không quỳ lạy.
Ba
Thiên Thạch lấy giấy bút trên bàn viết mấy chữ: "Thông Biện tiên sinh
có điều chi muốn nói? Các ngươi tâu lên Hoàng thượng đi!".
Lung á lão
nhân tính tình rất là cổ quái, những đệ tử dưới trướng cùng những người
hầu cận lão đều bị cắt lưỡi và chọc thủng màng tai để trở thành những
người câm điếc như lão, đã chẳng nghe thấy gì lại không nói được. Thật
là một quy luật đặc biệt nên khách giang hồ ai cũng biết tiếng. Gã thanh
niên đứng mé trái cởi bọc đeo trên lưng xuống, mở ra lấy một bộ quần áo
con gái mầu hồng nhạt mặc vào rồi lại lấy phấn sáp thoa lên mặt. Còn
một gã giúp hắn sẻ tóc ra, buộc làm hai túm,quấn chỉ mầu hồng vào, hoá
trang làm một vị nữ lang. Mọi người thấy thế vừa kinh ngạc vừa buồn
cười, đều nghĩ mãi không hiểu Lung á tiên sinh phái hai gã sứ giả này
đến để giở trò quỷ quái gì. Gã thanh niên giả dạng thiếu nữ xong, liền
thướt tha bước hai bước tới rồi lại õng ẹo múa chân, múa tay một hồi,
điệu bộ thướt tha cho ra vẻ một thiếu nữ khả ái. Mọi người tuy buồn cười
nẻ ruột song đều cho là Lung Á lão nhân giở trò này tất có thâm ý gì
nên ai cũng giữ vẻ trầm mặc, không cười lên tiếng. Riêng mình Ðoàn Dự
chẳng cần hiểu Lung Á lão nhân là hạng người nào, vỗ tay cả cười hỏi:
-Ngươi đóng vai một vị nữ lang, còn gã kia thủ vai gì?

thanh niên thứ hai không cải trang chi hết, ngẩng đầu lên, nhìn cao
bước dài,tựa hồ một nhân vật hiên ngang, tung hoàng thiên hạ không ai
bằng mình. Hắn đi quanh một vòng, tới trước mặt thiếu nữ giả nghiêng đầu
nhoẻn cười và đưa mắt liếc, rồi lại thò tay vuốt má. Thiếu nữ giả cũng
tủm tỉm cười, môi mấp máy làm bộ như người nói được. Thốt nhiên thanh
niên ghé miệng hôn má thiếu nữ giả. Thiếu nữ giả tức mình đưa tay tát
bốp vào má thanh niên một cái thật mạnh. Thanh niên vụt chìa ngón tay
trỏ ra, điểm vào cạnh sườn thiếu nữ giả. Trong lúc thanh niên đưa ngón
tay trỏ ra thì từ Bảo Ðịnh Ðế, Ðoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái,Huỳnh Mi
tăng, Thạch Thanh Tử cho đến bọn tam công nước Ðại Lý, không hẹn nhau
mà cùng kêu rú lên một tiếng.
Ðoàn Chính Thuần và Thạch Thanh Tử rời
chỗ ngồi, đứng phắt dậy vì thấy ngón tay điểm huyệt của thanh niên này,
về thủ pháp cùng cương vị nhất nhất đúng phép "Nhất Dương Chỉ" gia
truyền của họ Ðoàn.
Về thủ pháp Nhất Dương Chỉ thoáng nhìn thì tựa hồ
chẳng có chi là khó nhưng kỳ thực trong đó chứa đựng bao nhiêu biến hoá
kỳ diệu. Ngón tay phóng ra phải tuỳ theo phương tiện, đứng cách xa bao
nhiêu, rồi đưa cả bàn, không một chỗ nào có thể sai lầm bằng dây tơ sợi
tóc, không thế thì uy lực không thể phát huy ra được.
Bọn Huỳnh Mi
tăng, Thạch Thanh Tử, Cao Thăng Thái tuy chưa học môn Nhất Dương Chỉ
song đối với họ Ðoàn là chỗ thân mật từ lâu nên về thủ pháp đúng hay
sai, thoáng trông đã hiểu ngay.
Mọi người đều biết rõ Lung á lão
nhân về võ công tự lập ra một phái võ chuyên về môn âm nhu trái ngược
với môn Nhất Dương Chỉ chuyên về sở trường dương cương. Hai đằng khác
hẳn nhau, không hiểu sao đồ đệ lão lại học được môn chỉ pháp đó?
Mọi người còn đang kinh dị thì trong chớp nhoáng, sự biến hoá lại phát sinh ngay trước mắt.
Thiếu
nữ giả thấy ngón tay thanh niên điểm tới, vụt đưa bàn tay ra nắm lấy,
ngón tay trỏ thanh niên kêu rắc một tiếng. Ngón tay thanh niên đã bị gãy
xương. Miếng bẻ đó thật là kỳ diệu.
Mọi người đều nhìn thấy rõ
ràng, nhưng không ai ngờ được là cô thiếu nữ giả hiệu lại biết sử dụng
thế đánh hiểm hóc này. Thanh niên lại bước lên một bước, dùng ngón tay
trỏ bên trái điểm trước ngực thiếu nữ giả, vẫn theo phép Nhất Dương Chỉ.
Thiếu
nữ giả hai tay vừa chập vào nhau đã nghe cấc một tiếng, ngón tay trái
thanh niên lại bị gãy nốt. Thanh niên bị gãy liền hai ngón tay và tựa hồ
không đau đớn gì vẫn tiếp tục tấn công. Trong khoảnh khắc gã sử dụng
luôn sáu thế về phép Nhất Dương Chỉ. Thiếu nữ giả phản công bằng đủ mọi
cách, hoặc bật lên đè xuống,hoặc nắm lấy hất ra, hoặc móc vào giữ lại.
Kết cục đối phương lại gẫy thêm sáu ngón tay nữa, chỉ còn trơ lại hai
ngón tay cái, thanh niên phải xoay người sang mé bên trái chạy trốn.
Thiếu
nữ giả vỗ tay cười ha hả, ra chiều đắc ý rồi lại cầm bút viết mấy chữ:
"họ Ðoàn nước Ðại Lý còn thua nhà Mộ Dung ở Cô Tô". Viết xong ném bút
xuống, dắt tay thanh niên bị gãy ngón tay đó đi liền.
Ba Thiên Thạch cản lại nói:
-Hãy thong thả.
Bảo Ðịnh Ðế lắc đầu nói:
-Cứ để cho họ đi.
Hai
gã đi khỏi, mọi người đều cảm thấy đầu óc nặng trĩu, yên lặng không ai
nói gì. Mọi người đều hiểu rằng Lung Á lão nhân sở dĩ phái hai tên sứ
giả này tới cốt ý bảo rõ cho Bảo Ðịnh Ðế và Ðoàn Chính Thuần biết là nhà
Mộ Dung ở Cô Tô đã có cách phá môn Nhất Dương Chỉ của họ Ðoàn rồi.

nhiên Bảo Ðịnh Ðế hay Ðoàn Chính Thuần sử dụng phép Nhất Dương Chỉ tất
uy lực sẽ mạnh hơn nhiều, song đây đối phương tượng trưng bằng một thiếu
nữ, đến lúc bậc cao thủ khác của Mộ Dung ra tay, tất nhiên các đường
đánh còn kỳ diệu hơn gấp mấy. Ðiều làm cho mọi người băn khoăn nhất là
thanh niên đó công nhiên sử dụng luôn được tám đường trong môn Nhất
Dương Chỉ, tuy còn kém về sức mạnh song cách thức thì không sai mảy may.
Tám thủ pháp để khắc chế địch thủ của thiếu nữ giả lại càng kỳ diệu và
biến hóa không biết đâu mà lường được.
Bảo Ðịnh Ðế không nhắc tới chuyện vừa rồi, quay sang mỉm cười hỏi Thạch Thanh Tử:
-Ðạo huynh! Ðạo huynh lận đận từ Giang Nam đến đây, phải chăng cũng có chuyện gì liên quan đến nhà Cô Tô Mộ Dung?
Thạch Thanh Tử lắc đầu đáp:
-Ðối
với bọn Mộ Dung thì chẳng có liên quan gì nhưng đối với họ Ðoàn thì có
việc liên quan rất lớn. Số là đệ tử họ Ðoàn đã gây ra tại thành Dương
Châu một việc rắc rối không thể tả được.
Hoàng đế nhà Ðại Tống tuy
có nể mặt Ðoàn huynh,không muốn truy cứu làm gì, song những nhân sĩ võ
lâm ở Trung Nguyên đều nổi công phẫn.
Bảo Ðịnh Ðế kinh ngạc hỏi:
-Con
cháu họ Ðoàn chúng tôi mới chỉ có mỗi Ðoàn Dự, song y chưa rời khỏi
nước Ðại Lý lấy nửa bước thế thì làm sao đến quấy rối tận Dương Châu
được?
Thạch Thanh Tử đáp:
-Trong một đêm mà 28 mạng của ba nhà Hạ
Hầu Túc, Kim Trung và Vương Thúc Kiền tức Dương Châu tam hùng đều bị
chết sạch về đòn Nhất Dương Chỉ.
Vậy Dương Châu tam hùng trước kia có đắc tội gì với Ðoàn huynh không?
Về Đầu Trang Go down
Oz Vessalius
Tướng Quân
Tướng Quân
Oz Vessalius

Tổng số bài gửi : 95
Điểm Thưởng : 5149
Độ Tin Tưởng : 104
Join date : 05/01/2011

Thiên Long Bát Bộ - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ   Thiên Long Bát Bộ - Page 2 I_icon_minitimeThu Jan 06, 2011 5:23 pm

Hồi 24

Lục mạch Thần kiếm




Bảo Ðịnh Ðế hỏi:
-À này! Thạch đạo huynh! Có phải 28 người đó đã đích xác chết về phép Nhất Dương Chỉ không?
Thạch Thanh Tử hỏi lại:
-Phép
Nhất Dương Chỉ giết người một cách rất Vương đạo. Ðối phương sau khi
trúng Nhất Dương Chỉ khoan khoái dị thường. Chân tay gân cốt thư thái vô
cùng nên lúc chết còn để lại nét mặt vui tươi, khắp mình không một vết
thương. Có đúng thế không?
Ðoàn Chính Thuần cười đáp:
-Anh chàng mũi trâu ơi! Anh nói không sai chút nào. Chắc anh đã được nếm mùi Nhất Dương Chỉ rồi thì phải.
Thạch Thanh Tử không cười nữa, nghiêm sắc mặt nói:
-Quả 28 gã hán tử trong nhà tam hùng tại Dương Châu đều ngậm cười mà chết,khắp mình không có thương tích gì hết.
Ðoàn Chính Thuần lại hỏi:
-Phải chăng người mềm như bún, thân không co quắp?
Thạch Thanh Tử nói:
-Ðúng
thế! Tôi biết có thứ thuốc độc giết người, xác chết còn lộ vẻ mặt tươi
cười nhưng thây mềm nhũn như bún thì ngoài phép Nhất Dương Chỉ ra khắp
thiên hạ không còn loại nào nữa.
Ðoàn Chính Thuần nói:
-Họ Ðoàn nhà ta không được đa đinh, hàng con cháu chỉ có mình thằng Dự thế mà đến nay y vẫn chưa chịu học phép Nhất Dương Chỉ.
Bảo Ðịnh Ðế hỏi Thạch Thanh Tử:
-Ðạo
huynh! Ðạo huynh vừa bảo trong nhà tam hùng ở Dương Châu chỉ toàn đàn
ông bị chết mà thôi, không có người đàn bà nào cả. Vậy thì mặt mũi hung
thủ hẳn có người nhận được chứ?
Thạch Thanh Tử đáp:
-Hạ Hầu phu
nhân cùng Vương phu nhân đều nói rằng hung thủ lấy khăn xanh bịt kín,
không nhìn rõ mặt. Cứ xem tầm vóc mà đoán thì rõ ràng là một người còn
ít tuổi.
Bảo Ðịnh Ðế thở dài đưa mắt nhìn Ðoàn Chính Thuần. Ðoàn Chính Thuần nói:
-Thạch
đạo huynh! Từ vụ thằng con tôi bị kịch độc cho tới vụ giết người đều do
tay một người trong họ Ðoàn tôi. Người đó mang danh hiệu "thiên hạ đệ
nhất ác nhân". Ðoạn đem chuyện Ðoàn Dự bị cướp đem đi ra sao, Huỳnh Mi
tăng gia công giải cứu thế nào thuật sơ qua lại một lượt. Lại kể cả cuộc
đấu cờ, chính ra Huỳnh Mi tăng sắp thua rồi, sau thái tử Diên Khánh đi
nhầm một nước nên nỗi bị bại.
Huỳnh Mi tăng nói:
-Ðoàn nhị huynh
bất tất phải che cái xấu cho ta? Rõ ràng là lão tăng phải thua ông ta mà
ngay đến lão mũi trâu cũng không đấu nổi đâu.
Thạch Thanh Tử nói:
-Chưa chắc!
Huỳnh Mi tăng nói:
-Chúng ta đấu chơi một bàn nào!
Thạch Thanh Tử nói:
-Tôi đang muốn lĩnh giáo đây.
Huỳnh Mi tăng cười lạt nói:
-Thật đáng nực cười!
Thạch Thanh Tử hỏi:
-Hoà thượng sao lại cười ta?
Huỳnh Mi đáp:
-Lão
tăng buồn cười cái người không có một chút kiến thức nào cả. Hiển nhiên
là đám môn hạ Ðoàn Diên Khánh làm nên tội lỗi lại đổ tiếng ác cho Ðoàn
Hoàng gia.
Thạch Thanh Tử đỏ mặt lên cãi:
-Ðoàn Diên Khánh không phải người họ Ðoàn hay sao? Môn đệ Ðoàn Diên Khánh thì cũng là môn đệ họ Ðoàn chứ gì?
Huỳnh Mi cười lạt nói:
-Thôi đừng lý sự cùn nữa.
Thạch Thanh Tử cũng cười lạt nói:
-Chính hòa thượng hay nói hươu nói vượn thì có.
Bảo Ðịnh Ðế thấy hai người cãi nhau cũng mỉm cười nói:
-Theo
lời tiên sinh thì cô gái nhà Mộ Dung phá phép Nhất Dương Chỉ mà chàng
trai trêu cợt cô gái đó có lẽ là thủ phạm giết người nhà tam hùng ở
Dương Châu.
Tới đây Bảo Ðịnh Ðế nói bằng một vẻ trịnh trọng:
-Thuần
đệ! Tổ tiên ta đã có minh huấn, không bao giờ can thiệp vào những vụ
trả ân, trả oán giữa các phái võ ở Trung Nguyên. Nhưng trong vụ này mắt
mình ngó thấy có người đem phép Nhất Dương Chỉ ra làm càn rỡ thì họ Ðoàn
không thể điềm nhiên ngồi nhìn được.
Ðoàn Chính Thuần nói:
-Chính thế!
Cả
hai anh em Bảo Ðịnh Ðế đều để bụng không nói ra miệng vụ nhà Mộ Dung ở
Cô Tô cậy có võ công lợi hại up hiếp phép Nhất Dương Chỉ của môn đệ họ
Ðoàn, nếu bỏ không can thiệp thì oai danh họ Ðoàn nước Ðại Lý sẽ bị tổn
thương rất nhiều.
Bảo Ðịnh Ðế lại nói:
-Hoàng đệ cùng tam công, Tứ
ẩn (tức Ngư, Tiều, Canh, Ðộc) đến chùa Thiếu Lâm thăm Huyền Từ đại sư,
đồng thời nếu quan sát cho biết rõ được môn võ công tuyệt thế của phái
Mộ Dung ở Cô Tô thì hay lắm. Còn thái tử Diên Khánh là dòng dõi chính
thống của Tiên Hoàng, đối với người không được vô lễ ! Giả tỷ bọn môn đệ
người có làm điều ác đức cũng phải điều tra cho rõ ràng rồi giao lại để
người trừng trị, bọn ta không được tự tiện hạ sát.
Ðoàn Chính Thuần
cùng tam công, tứ ẩn cúi đầu lĩnh chỉ. Bảo Ðịnh Ðế lại thấy Cao Thăng
Thái cũng có vẻ nhơn nhơn, muốn ra đi liền mỉm cười phán bảo:
-Các tay cao thủ trong triều thế là đi gần hết rồi Thiện Xiển Hầu cần phải ở nhà phò tá quả nhân.
Cao Thăng Thái vâng mệnh. Ðoàn Dự cũng bước ra bẩm:
-Thưa bá phụ ! Xin cho cháu cùng đi với gia gia để cháu thêm phần lịch duyệt.
Bảo Ðịnh Ðế lắc đầu phán:
-Cháu
bị trúng độc chưa khỏi. Ta còn phải tìm cách giải độc, trừ tà cho cháu
mất mấy bữa nữa. Vả cháu không biết võ nghệ, vào Trung Nguyên chỉ tổ làm
mất thể diện cho họ Ðoàn nước Ðại Lý.
Ðoàn Dự thẹn mặt đỏ bừng. Bây
giờ chàng mới có ý hối hận, tiếc rằng giá mình chịu học võ rồi có phải
ngày nay được vào Trung Nguyên du ngoạn thì hay biết chừng nào?
Hôm ấy trong phủ Trấn Nam Vương mở tiệc tẩy trần thết Thạch Thanh Tử.
Ðoàn
Dự ngồi riêng một chiếu vì không ai dám đụng chạm vào chàng, sợ bị
nhiễm tà độc. Lúc ăn uống hay chuyện trò cùng chàng ai nấy đều phải ngồi
cách xa chàng, đã là một sự làm cho chàng mất cả hứng thú. Da dĩ trong
cơ thể còn chứa đựng bao nhiêu chân khí hút ở ngoài vào, chàng không có
cách nào quy tụ lại được khiến chàng vô cùng bứt rứt. Ðoàn Dự ngồi ăn
tiệc càng lâu chàng càng thấy khó chịu nên nhấp xong ba chung rượu rồi
chàng cáo từ mọi người về phòng riêng.
Chàng nằm hồi tưởng lại những
chuyện đã xẩy đến cho chàng mấy hôm vừa qua thật là ly kỳ. Rồi chàng lại
nhớ tới Mộc Uyển Thanh cùng Chung Linh, là hai nàng chàng mới quen
biết, không hiểu bây giờ buồn bực đến thế nào? Sau nữa chàng nghĩ đến
việc song thân đòi hỏi Cao My tiểu thư cho chàng làm vợ. Chàng chưa biết
mặt Cao tiểu thư, không hiểu tính tình Cao tiểu thư có hợp với mình
không?
Dung mạo tiểu thư đẹp hay xấu? Ðầu óc Ðoàn Dự bị đảo lộn bởi
bao làn sóng tư tưởng. Trong cơ thể chàng, chân khí chạy tứ tung chẳng
khác gì đàn ngựa bất kham chạy không dừng vó hay đàn vượn trên núi nhảy
nhót tha hồ. Tuy không đến nỗi thảm hại như hôm uống phải Âm Dương Hòa
Hợp Tán, lửa lòng khôn bề dập tắt,nhưng cũng khó chịu vô cùng. Hồi lâu
Ðoàn Dự mê man ngủ đi lúc nào không biết.
Nửa đêm chàng thức giấc
thấy hai lòng bàn tay mình có người nắm chặt, chàng giật mình la lên một
tiếng thì lập tức bị một tấm khăn nhét vào miệng. Chàng nghiêng đầu
nhìn qua một bên, dưới ánh đèn lờ mờ chàng nhìn rõ bộ mặt anh tuấn
như
đang mỉm cười chính là Thạch Thanh Tử. Chàng lại nghếch mắt quay sang
bên phải nhìn thấy cặp lông mày dài sắc vàng: đó là Huỳnh Mi tăng với bộ
mặt gầy đét nhưng đầy vẻ từ bi vừa mỉm cười vừa gật đầu bảo chàng đừng
sợ hãi gì rồi rút tấm khăn trong miệng chàng ra.
Ðoàn Dự thấy một nhà sư và một thầy đạo bên mình
mới yên tâm toan dậy thi lễ. Thạch Thanh Tử khẽ bảo:
-Hiền điệt bất tất đa lễ. Cứ nằm yên để chúng ta trừ tà giải độc cho.
Ðoàn Dự ngỏ lời cảm tạ thì Huỳnh Mi tăng ngắt lời:
-Chúng ta là chỗ tâm giao với bá phụ hiền điệt. Có làm gì chút việc nhỏ mọn này mà cháu phải bận tâm?
Thạch Thanh Tử cười lạt nói móc:
-Ðã chắc đâu hoà thượng trừ tà giải độc được cho y, hãy làm đi rồi hẵng nói khoác.
Ðoàn
Dự toan nói nữa thì đột nhiên hai bàn tay run lên đồng thời hai luồng
chân khí chuyển vào thân thể chàng. Chàng giật nẩy mình, mặt đỏ bừng lên
như người say rượu. Hai luồng chân khí chuyển vào kinh mạch, lúc đầu
chàng cũng thấy nó chạy nhộn lên trong người, dần dần chạy yếu đi rồi
yên hẳn lại. Chừng trong khoảng thời gian ăn xong bữa cơm, Ðoàn Dự thấy
nửa mình bên phải nóng ran,ngược lại nửa mình bên trái lạnh toát. Nhưng
lạ thay, tuy người phát hàn nhiệt như vậy mà trong lòng rất là thư thái
dễ chịu. Chàng biết hai tay cao thủ dùng nội công thượng thừa để trừ tà
giải độc cho mình.
Ðoàn Dự đoán vậy chỉ đúng có một phần thôi. Nguyên
hai vị Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử đã cùng nhau tỷ thí đủ thứ: đấu
văn, đấu võ, đấu quyền cước, đấu gươm đao, đấu nội công, đấu kiến văn.
Mấy chục năm nay hai ông đấu biết bao nhiêu phen mà khôn phần cao thấp.
Hôm nay hai ông ngồi dự tiệc khích bác nhau rồi nửa đêm đưa nhau ra hoa
viên bàn nhau đấu võ, lấy việc trừ tà giải độc cho Ðoàn Dự làm tiêu
chuẩn.
Hai ông này đã hai phen tỷ thí, hao phí công lực quá nhiều
nếu không được Bảo Ðịnh Ðế giải cứu kịp thời thì quy tiên cả rồi. Phen
này hai ông dùng cách đấu kỳ khôi này đã tưởng nhất cử lưỡng tiện: một
là so tài cao thấp, hai là đỡ cho Bảo Ðịnh Ðế chút công nhỏ mọn. Về cách
dùng nội công để trị bệnh ngoại thương thì khắp thiên hạ không còn môn
nào hơn được phép Nhất Dương Chỉ. Hai vị ước hẹn với nhau: mỗi vị trị
một nửa người Ðoàn Dự, ai thành công trước là được. Ðành rằng hai vị trừ
tà giải độc, cái hảo tâm là ở chỗ đó nhưng lại đem con người ta ra làm
đề mục để đánh đố. Nhà sư và thầy đạo nghĩ rằng sức mạnh tà độc trong
mình Ðoàn Dự cực kỳ lợi hại. Nếu phải gắng vận động cho nội công thấm
vào người chàng mới khu trừ ra được và nếu không khu trừ hết được tà độc
ra ngoài nhất định cũng không tổn hại gì.
Hai vị đâu có biết rằng
trong mình Ðoàn Dự không súc tích tà độc mà chứa toàn chân khí hút ở
ngoài vào và bị một vật chí bảo trên thế gian là đôi Mãng Cổ chu cáp chế
hoá làm cho công phạt. một khi đã nuốt chu cáp vào rồi thì nó biến hoá
thấm vào cơ thể trong người, còn tài nào mà trục ra được? Nguyên một hấp
lực của đôi chu cáp cũng đã mạnh ghê gớm rồi, huống chi còn thêm vào đó
chân khí của sáu nhà sư, đồ đệ Huỳnh Mi tăng. Hiện giờ về nội lực Ðoàn
Dự không thua kém Huỳnh Mi và Thạch Thanh Tử. Chỉ có rằng chàng chưa
biết cách vận dụng và phát huy ra mà thôi. Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh
Tử vận chân khí vào người Ðoàn Dự, sức thần công của chu cáp hút lấy. Cơ
sự này do mệnh hệ Ðoàn Dự xui nên,gặp được hai tay cao thủ tuyệt đỉnh
trong võ lâm tự nguyện vận chuyển nội lực vào
trong người chàng. Nếu
là trường hợp ngẫu nhiên thì dù hấp lực của chu cáp có mạnh đến đâu hai
ông ít ra cũng còn đủ lực để thoát thân.
Huỳnh Mi luyện nội công theo
lối thuần dương, lấy cương làm tiêu chuẩn. Trái lại, Thạch Thanh Tử
theo lối thuần âm, lấy nhu làm tôn chỉ. Hai vị một tăng, một đạo, tôn
giáo đã khác nhau, bản lãnh về nội công lại người âm kẻ dương hai
ngả,chả trách không bao giờ hai vị hoà hoãn với nhau được.
Hai vị tống chân khí vào người Ðoàn Dự hồi lâu, cảm thấy trong mình trống trải.
Nhưng
lần này chân khí thoát đi chẳng khác gì đá chìm biển cả, không thu về
được nữa. Hai vị cùng tranh nhau thủ thắng, càng gắng sức phóng kình lực
cho mau.
Chẳng mấy chốc Huỳnh Mi tăng thấy người bả lả vì nội lực
cạn dần, biết rằng việc này lỡ bét nếu còn vận thêm lúc nữa thì nội công
trong người sẽ hết sạch sành sanh , liền ngẩng đầu lên nói với Thạch
Thanh Tử:
-Thạch đạo huynh! Vụ này xem ra nhiêu khê lắm! Ta hãy dừng tay xem sao đã.
Chính
Thạch Thanh Tử cũng cảm thấy khó chịu và cũng muốn đình bãi nhưng vốn
tính hiếu thắng, nghĩ thầm: "thế là anh chịu mở miệng xin buông tha rồi
đây" liền đáp:
-Nếu đại sư không đủ nội công thì xin cứ việc mà rút lui trước đi. Bần đạo chẳng dám cưỡng ép con người bất lực.
Huỳnh Mi cả giận nói:
-Gã thầy đạo mũi trâu kia! công lực anh đến mức nào ta còn lạ gì mà anh lại muốn lên mặt anh hùng hảo hán cả với ta nữa ư?
Thạch
Thanh Tử cũng tự biết công lực mình cùng Huỳnh Mi chẳng chênh lệch nhau
mấy nỗi. Song lại nghĩ rằng Huỳnh Mi vừa mới dốc hết lực lượng ra sống
mái với người ác nhất thiên hạ là thái tử Diên Khánh thì nội công tất bị
hao tổn rất nhiều. Thật là cơ hội ngàn năm một thuở để mình có thể
thắng được địch thủ cho thoả nguyện bình sinh. Nếu bỏ lỡ cơ hội này thì
từ giờ đến chết cũng không còn dịp nào để phân thắng bại nữa. Vì thế mà
đạo nhân cố gắng chống chọi lúc nữa, buộc bên kia phải lùi bước trước để
giữ phần thắng về mình. Nào ngờ Huỳnh Mi tăng xưa nay vẫn là người bụng
dạ rộng rãi, tính nết khoan hòa, không muốn tranh hơi mà đối với Thạch
Thanh Tử nhà sư lại kèn cựa từng tý, không chịu nhượng bộ một ly. Hai vị
gắng gượng chịu đựng thêm lát nữa. Một mặt chân lực trong người Ðoàn Dự
càng lên cao, hấp lực càng mạnh, một đằng nhà sư và thầy đạo cảm thấy
tàn lực dốc ra tuồn tuột, không còn cách nào ngưng tụ lại được. Trong
lúc cấp bách hai vị muốn tạm gác việc tranh đua thì đã không kịp rồi,
thậm chí toan rút tay ra khỏi bàn tay Ðoàn Dự cũng không đủ lực nữa. Tay
bị dính chặt, chẳng khác gì bọn Phá Tham 6 người trước đây. Huỳnh Mi
tăng và Thạch Thanh Tử đưa mắt nhìn nhau và cùng có ý hối hận. Sở dĩ lâm
vào bước khốn cùng này chẳng qua vì chưa bỏ dứt được nết háo thắng mà
ra. Giả tỷ thấy cơ sự bắt đầu nguy biến, rụt tay về ngay thì đâu đến
nỗi?
Một lúc nữa nhà sư và thầy đạo thần sắc lợt lạt, hơi thở yếu
dần. Ðoàn Dự có biết đâu cơ sự nhường này. Giả tỷ chàng hiểu rằng hai vị
tiếp vận chân khí cho mình mà phải tổn thương đến nội lực của người thì
chàng nhất định từ chối. Chàng
vẫn tưởng rằng hai vị truyền nội lực để trừ tà tiêu độc cho mình cũng chẳng cần gì.
Chân
khí trong người chàng lên cuồn cuộn tựa nước triều dâng, mỗi lúc một
bành chướng. Sau chàng mê man như người say rượu, tỉnh không tỉnh hẳn,
ngủ chẳng ngủ cho. Hai vị tăng đạo lâm vào tình trạng nguy khốn mà chàng
chẳng biết gì.
Tình trạng này nếu còn kéo dài chừng nửa giờ nữa là Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử sẽ thành phế nhân.
Ngay lúc ấy cửa phòng mở ra, một người bước vào, vừa ngó mặt hai vị liền thất kinh la lên:
-Thôi hỏng to rồi!
Dứt lời cầm tay áo Huỳnh Mi giật ra đằng sau một cái, bật rời khỏi tay Ðoàn Dự, rồi giật đến tay Thạch Thanh Tử ra, lẩm bẩm:
-Ta
đã biết hai vị đụng đầu nhau là có chuyện nên vừa không trông thấy hai
vị đâu liền đi kiếm khắp cả. Ai ngờ đã chui vào đây làm rùm?
Người mới vào đó chính là Bảo Ðịnh Ðế. Nhà vua nhìn sắc mặt hai vị rồi bất giác than rằng:
-Hai
người đã sống đến bằng này tuổi đầu, còn chi là không hiểu nữa? Thế mà
hôm nay vì một chuyện tranh hơi để đến nỗi tổn hại bao nhiêu công lực.
Nhà
Vua cầm cổ tay Huỳnh Mi xem, thấy mạch chạy yếu quá, xem đến Thạch
Thanh Tử cũng vậy thì lắc đầu lia lịa cho là hai người đi vào vết xe đổ
cũ để xảy ra cơ sự nhường này. Ai ngờ nội lực hai bậc cao thủ đều bị
cháu mình hút cả. Nhà Vua lại quay sang nhìn Ðoàn Dự, thấy cháu mình
thiêm thiếp chưa tỉnh lẩm bẩm:
"Hai vị lão hữu tỷ thí làm thằng bé bị
hoạ lây". Vừa cầm mạch xem thì thấy nội lực chàng cực kỳ sung mãn, âm
dương giao hợp, cương nhu điều hòa nhưng hấp lực rất mạnh làm giật cả
tay mình lên.
Bảo Ðịnh Ðế trong lòng nghi hoặc, nghĩ thầm: "cứ xem
tình hình này mà đoán thì nội lực hai vị tăng, đạo đã bị thu vào thân
thể Ðoàn Dự mất cả". Liền gọi nội thị dìu hai vị vào hai phòng riêng xa
cách nhau để tĩnh dưỡng, đừng để hai vị gần nhau lỡ sinh tai vạ.
Sáng
sớm hôm sau, Ðoàn Chính Thuần xuất lĩnh tam công, tứ ác từ biệt Hoàng
huynh cùng vợ con, theo Tuệ Chân, Tuệ Thiền sang chùa Thiếu Lâm. Tuy ông
cũng băn khoăn về Ðoàn Dự chưa khỏi bệnh nhưng đã có hoàng huynh lo
điều trị,cũng không có gì đáng ngại. Lúc ra đi, ông vào ngó con lần nữa,
thấy chàng mặt mũi hồng hào, đang ngủ ngon giấc nên cũng vững dạ.
Bảo
Ðịnh Ðế tiễn hoàng đệ cùng các vị hảo hán rồi trở vào thăm Huỳnh Mi cù
ng Thạch Thanh Tử thì thấy đang tĩnh toạ. Sắc mặt Huỳnh Mi trắng bệch,
người run lẩy bẩy còn Thạch Thanh Tử lại mặt đỏ nhừ vì hư hoả bốc lên.
Cả hai người đều do bị thương cực kỳ trầm trọng mà ra, nguyên khí hao
tổn mất nhiều.
Nhà Vua dùng phép Nhất Dương Chỉ điểm vào các huyệt
trọng yếu nhà sư và thầy đạo, lại đem chân khí mình ra để chữa nội
thương cho hai vị. Bảo Ðịnh Ðế lại sang thăm Ðoàn Dự. Vừa đến cửa phòng
đã nghe tiếng "loảng choảng" không ngớt phát ra, do các đồ vật đổ vỡ. Gã
nội thị giữ cửa Vương phủ, quỳ xuống tiếp giá, nét mặt đầy vẻ kinh
hoàng, bẩm rằng:
-Thế tử... bị ma làm... đang nổi cơn điên.... hai quan thái y hiện ở trong phòng điều trị.
Bảo Ðịnh Ðế gật đầu đẩy cửa bước vào, thấy Ðoàn Dự đang khoa chân múa tay.
Bất
luận bàn ghế, ấm chén hay các đồ vật trần thiết chàng xô gẫy ngổn
ngang, đập vỡ tan tành. Hai quan thái y lẩn tránh chạy cuống cả lên. Nhà
Vua tiến lại cất tiếng hỏi:
-Dự nhi! Con làm sao vậy?
Ðoàn Dự vẫn
tỉnh táo, chỉ vì chân khí trong người đầy rẫy dường như muốn xé thịt
nứt da cho tràn bớt ra ngoài. Có tay đấm, chân đá, đập phá đồ đạc mới
hơi thư thái một chút. Chàng thấy bá phụ vào liền gọi to:
-Bá phụ ơi! Cháu muốn chết đây!
Chàng vừa gọi vừa vung tay loạn xạ.
Bảo Ðịnh Ðế hỏi:
-Con thấy trong mình thế nào?
Ðoàn Dự dậm chân thình thịch đáp:
-Toàn thân cháu chỗ nào cũng mọng lên. Bá phụ cho lấy bớt máu trong người cháu ra!
Bảo Ðịnh Ðế nghĩ bụng: "hay là làm thử cách này xem sao?". Liền quay sang bảo quan thái y:
-Ngươi thử lấy bớt máu y ra!
Thái
y vâng mệnh, mở cái hộp sành lấy ra một con đỉa. Ðỉa là vật chuyên hút
máu, dùng để chữa cho người ứ huyết rất tiện, người bệnh lại không đau
đớn gì.
Quan thái y cầm chặt tay Ðoàn Dự, đặt mồm con đỉa vào đúng
mạch máu. Quan thái y này không hiểu võ công, trong người ông chưa luyện
thành chân khí, nội lực cho nên chạm vào người chàng không bị hút chặt
như người có chân khí. Có điều con đỉa này đặt vào tay Ðoàn Dự thì nó
cựa quậy, không chịu nằm yên mà làm thế nào nó cũng không hút máu. Quan
thái y rất lấy làm lạ, phải ráng sức giữ chặt nó. Nhưng chỉ được một
lát, con đỉa giãy lên một cái rồi chết ngay. Quan thái y bất lực trước
mặt nhà Vua, vừa thẹn vừa sợ, mồ hôi trán nhỏ xuống tong tong, vội vàng
lấy con đỉa khác ra nhưng rồi cũng bị chết như con trước.
Còn vị thái y thứ hai tỏ vẻ lo lắng tâu rằng:
-Khải tấu Hoàng thượng! Thế tử ngộ độc dữ quá, chất độc phát ra làm chết cả đỉa.
Ông
có biết đâu rằng Ðoàn Dự nuốt Mãng Cổ chu cáp rồi, bất luận rắn rết hay
giống gì độc đến đâu cũng phải xa lánh. Ðệ nhất độc là rắn còn phải
khiếp phục huống chi là con đỉa.
Bảo Ðịnh Ðế nghe thái y nói lại càng nóng ruột, phán hỏi:
-Thuốc độc gì mà ghê gớm đến thế?
Một quan thái y tâu:
-Theo ngu kiến hạ thần thì mạch thái tử nóng dữ quá tất là trúng phải nhiệt độc.
Quan thái y kia cãi:
-Không phải! Mạch thái tử âm hư thế là trúng hàn. Cần bốc thuốc nhiệt để điều hoà.
Sự
thực thì trong mình thế tử một bên chứa nội lực thuần dương của Huỳnh
Mi tăng, một bên lại chứa nội lực thuần âm của Thạch Thanh Tử. Hai quan
thái y xem mạch tương phản nhau là bởi thế. Hai vị thái y này đã nổi
tiếng danh sư nước Ðại Lý.
Nhà Vua nghe hai vị danh y tranh luận hàn nhiệt với nhau mãi nghĩ thầm: "tà độc trong mình Ðoàn Dự rất là kỳ dị".
Bảo
Ðịnh Ðế lại thấy Ðoàn Dự xé rách cả quần áo thì trong lòng ái ngại,
nghĩ bụng: "thật là một vấn đề cực nan giải, chỉ còn cách lên chùa Thiên
Long thỉnh thị".
Nhà Vua liền bảo Ðoàn Dự:
-Dự con! Ta đưa con lên bái yết mấy vị tiền bối, thế nào các người cũng có cách chữa cho con hết bệnh.
Ðoàn
Dự vâng lời. Chàng thấy mỗi lúc một khó chịu thêm, chỉ mong sao khỏi
bệnh nên mặc áo dài vào đi ngay. Ra khỏi cổng phủ, chàng cưỡi riêng một
ngựa theo Bảo Ðịnh Ðế trông về hướng tây bắc mà đi.
Chùa Thiên Long ở trên đỉnh ngọn Thiên Long.
Ngọn
Thiên Long là ngọn chính trong dãy núi Thiên Long. Dãy núi này chạy từ
mé tây bắc xuống vào đến nước Ðại Lý là hết, trông tựa như hình một con
rồng khổng lồ. Tổ tiên họ Ðoàn táng ở núi này. Ngọn Thiên Long là đầu
rồng, chùa Thiên Long dựng trên đầu rồng, thống lĩnh cả dãy núi, phong
cảnh rất là hùng vĩ. Những Hoàng đế nước Ðại Lý bỏ ngôi báu xuất gia đầu
Phật đều quy y ở chùa này. Có thể nói chùa Thiên Long là chùa của Hoàng
gia nước Ðại Lý. Kể tất cả các chùa trong nước thì chùa Thiên Long tôn
vinh hơn cả. Tuy nhiên đệ tử nhà Phật rất nhún nhường kiệm ước. Một khi
nhà Vua xuất gia rồi thì đến ngày sinh nhật, con cháu đều lên chùa làm
lễ triều bái, mỗi lần đến triều bái đều đem dâng quý vật hoặc tiền bạc.
Vì thế mà chùa xây rộng ra mãi. Cách kiến trúc của chùa này có phần
tráng lệ hơn cả các ngôi chùa lớn ở Trung Nguyên như Ngũ Ðài,Phổ Ðà, Cửu
Hoa, Nga Mi... Nhưng vì ở mãi miền biên giới xa xăm nên không
được nổi tiếng bằng các chùa ở Trung Nguyên.
Ðoàn
Dự theo bá phụ lên đến trước chùa, nhìn ánh dương quang chiếu vào các
tấm kính pha lê ngũ sắc lợp trên nóc chùa cực kỳ sán lạn. Cổng ngõ,
phòng ốc cũng uy nghiêm tráng lệ chẳng khác gì trong Hoàng cung nước Ðại
Lý. Bảo Ðịnh Ðế thường thường lên chùa. Tuy nhà Vua ở địa vị chí tôn
trong một nước, song các vị cao tăng chùa này đều là tiền bối ngài cả
nên cách tiếp đãi chỉ một lòng thánh kính chứ không câu nệ lễ nghi thái
quá.
Bảo Ðịnh Ðế cùng Ðoàn Dự trước hết vào yết kiến Thiên Nhân đại sư.
Theo
vị thứ ngoài trần tục thì đại sư đứng vào hàng thúc phụ nhà Vua. Các
người xuất gia không câu nệ lễ vua tôi mà cũng không cố chấp thứ bậc
trong gia đình, làm lễ tương kiến một cách bình đẳng.
Bảo Ðịnh Ðế thuật vắn tắt nhưng đủ ý về chuyện Ðoàn Dự trúng tà độc.
Thiên Nhân đại sư trầm ngâm hồi lâu rồi nói:
-Hãy theo ta lên phòng mâu ni ra mắt bốn vị sư huynh, sư đệ.
Bảo Ðịnh Ðế nói:
-Chúng tôi đến phiền nhiễu các vị đại hoà thượng, thực là lỗi lớn.
Thiên Nhân nói:
-Thế
tử con Trấn Nam Vương là người kế vị sau này. Thân thế y có quan hệ đến
hạnh phúc của trăm họ. Kiến thức và bản lãnh ngươi còn trên ta một bậc
mà phải đến đây hỏi tất là một việc rất khó giải quyết.
Ba người theo
dãy hành lang dài đi về phía tây đến chỗ mấy gian phòng toàn bằng gỗ
thông. Cả đến cột trụ hay ván ghép, cánh cửa nhất nhất để cả vỏ cây chứ
không bào gọt, trông có vẻ thiên nhiên chất phác, so với Phật đường vàng
son chói lọi thật khác xa nhau. Nhiều chỗ vách ván, cột trụ đã mục nát
cả. Mấy gian nhà này trông tựa hồ những nhà của khách đi săn thú, ngụ
trong một khu rừng hẻo lánh.
Thiên Nhân đại sư vẻ mặt trịnh trọng chắp tay nói:
-A di đà Phật! Thiên Nhân nay có việc nghi nan khó bề giải quyết, đến quấy nhiễu ba vị sư huynh, sư đệ đây.
Trong nhà có tiếng đáp vọng ra:
-Xin mời phương trượng vào trong này!
Thiên Nhân từ từ đẩy cửa ra. Cánh cửa rít lên những tiếng kẽo kẹt, đủ tỏ là cửa này ít khi mở ra khép vào.
Ðoàn Dự theo sau phương trượng và bá phụ đi vào.
Chàng
vừa nghe phương trượng bảo đến ra mắt ba vị mà trong căn nhà lại thấy
những bốn vị hòa thượng ngồi bốn ghế. Ba vị ngồi quay mặt ra ngoài thì
hai vị gầy đét, một vị tráng kiện khôi ngô. Ðầu đằng đông lại còn một vị
hòa thượng quay mặt vào tường vách, ngồi yên không nhúc nhích, thuỷ
chung vẫn không ngoảnh mặt ra ngoài.
Bảo Ðịnh Ðế nhận ra hai vị gày
đét pháp danh là Thiên Quan, Thiên Tướng là sư huynh Thiên Nhân phương
trượng. Còn nhà sư mặt mũi khôi ngô là Thiên Tham, sư đệ Thiên Nhân. Nhà
Vua chỉ biết ba vị cao tăng Quan, Tướng, Tham
trong viện mâu ni chùa Thiên Long. Còn vị thứ tư quay mặt vào vách kia thì chưa biết là ai.
Bảo
Ðịnh Ðế khom lưng chào, ba nhà sư mỉm cười đáp lễ. Còn vị thứ tư không
hiểu là đang tham thiền hay đang nhẩm kệ, không thể phân tâm được nên ai
làm gì cũng mặc.
Nhà Vua đã hiểu nhiều về quy củ nhà Phật "mầu ni"
có nghĩa là trầm lặng, vắng vẻ. Vậy ngồi trong mầu ni đường ít nói được
chừng nào hay chừng ấy.
Nhà Vua tóm tắt bệnh trạng Ðoàn Dự rồi nói:
-Cầu bốn vị đại đức chỉ đường cho!
Thiên Quan trầm ngâm suy nghĩ, lại đưa mắt nhìn Ðoàn Dự hồi lâu rồi hỏi:
-Hai sư đệ nghĩ sao?
Thiên Tham nói:
-Mình có mất ít nội lực tưởng cũng không phương ngại đến việc luyện Lục Mạch Thần Kiếm.
Bảo
Ðịnh Ðế vừa nghe bốn chữ "Lục Mạch Thần Kiếm" bất giác giật mình nghĩ
thầm: "Hồi mình còn nhỏ, ngẫu nhiên nghe gia gia nói đến ông tổ họ Ðoàn
ta có môn võ "Lục Mạch Thần Kiếm" uy mãnh vô cùng.
Gia gia còn bảo
môn này chỉ nghe thấy truyền miệng thế thôi, chứ chưa có bậc cao nhân
nào hiểu biết công trình môn đó thần kỳ ra sao. Nay lại thấy Thiên Tham
đại sư đề cập tới, chắc chắn là có môn kỳ công đó rồi".
Nhà Vua lại
nghĩ rằng: "xem chừng ba vị đại sư muốn đem nội lực tẩy độc cho thằng
Dự, làm như vậy thì trở ngại đến việc luyện Lục Mạch Thần Kiếm của các
vị.
Khốn nỗi đến cả hai vị Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử đồng thời
ra tay giải độc cho y cũng không xong. Nếu không trông vào lực lượng
của các vị đây thì làm sao chịu nổi?".
Nhà Vua nghĩ vậy tuy trong lòng áy náy mà không dám mở miệng khước từ.
Thiên
Tướng hoà thượng không nói năng gì, đứng dậy cúi đầu, đứng xéo về góc
đông bắc. Thiên Quan, Thiên Tham cũng mỗi người đứng ra một góc. Thiên
Nhân phương trượng nói:
-Phúc đức! Thật là phúc đức.
Rồi cũng đứng ra góc Tây Nam. Bảo Ðịnh Ðế bảo Ðoàn Dự:
-Bốn vị trưởng lão không tiếc tâm lực trừ tà giải độc cho con. Con mau khấu đầu bái tạ đi!
Ðoàn
Dự nhìn thần sắc và cử chỉ của bá phụ cùng bốn vị tổ sư biết công việc
này cực kỳ nghiêm trọng lập tức phục xuống lạy mỗi vị một lạy.
Bảo Ðịnh Ðế lại giục:
-Dự nhi! Ngồi xếp bằng lại! Dù có đau đớn hay ngứa ngáy cũng phải ráng chịu, đừng có hoảng hốt.
Ðoàn Dự vâng lệnh ngồi yên.
Thiên
Quan hoà thượng đưa ngón tay cái bên phải ra ngưng thần một chút rồi
đặt lên sau gáy trấn trên huyệt "phong phủ" của Ðoàn Dự, đem nội lực
Nhất Dương Chỉ ra phóng vào. Thiên Tướng hoà thượng điểm mạch "Tử Sang".
Thiên
Tham hoà thượng điểm mạch "¢m duy". Thiên Nhân phương trượng
điểm hai đường huyệt đạo "Xung mạch" và "đối mạch". Bảo Ðịnh Ðế điểm vào
mạch "âm kiểu".
Trong tám kinh mạch, năm vị để hở hai mạch "dương
duy" và "dương kiểu" không trấn áp. Cả năm vị đều vận dụng phép Nhất
Dương Chỉ khu trục tà khí trong người Ðoàn Dự, do hai mạch bỏ trống tiết
ra ngoài.
Năm tay đại cao thủ họ Ðoàn này bản lãnh Nhất Dương Chỉ xuýt soát như nhau, vận động nội lực năm đường nội
công phát ra tiếng kêu vù vù, dốc vào cơ thể Ðoàn Dự.
Toàn
thân chàng run lên bần bật rồi tựa như trời rét được phơi ra ánh nắng
mặt trời trong người ấm áp thư thái vô cùng. Ðoàn Dự hấp thụ nội lực của
năm tay đại cao thủ mỗi lúc một nhiều.
Bảo Ðịnh Ðế cùng bốn nhà sư
cảm thấy nội lực trong người mỗi lúc một trống rỗng thêm, thu về không
được mà hấp lực bên người Ðoàn Dự lại ghê gớm khác thường.
Năm người
đưa mắt nhìn nhau, trong lòng nghi hoặc. Bất thình lình một tiếng quát
ầm ầm vang dội, mọi người sợ run. Bảo Ðịnh Ðế biết đó là tiếng một người
trong cửa Phật có võ công vào hạng thượng thừa và mệnh danh là "Sư tử
hống". Tiếng quát còn chứa một nội lực rất thâm hậu, có thể trấn áp được
kẻ địch. Bỗng thấy nhà sư quay mặt vào vách cất tiếng nói:
-Nội nhật
hôm nay bọn cường địch sẽ đến đây. Uy danh chùa Thiên Long mấy trăm năm
nay đang bị đe doạ. Thằng nhỏ miệng còn hơi sữa trúng tà, trúng độc gì
gì hãy bỏ đó. Trong lúc gấp rút này mà còn vì nó hao phí công lực một
cách vô ích nữa ư?
Mấy câu nói cực kỳ oai nghiêm khiến người nghe phải lạnh gáy, không dám trái lệnh.
Thiên Nhân phương trượng bẩm:
-Lời sư thúc truyền dạy rất phải.
Dứt
lời vẫy tay trái một cái, năm người đồng thời lùi lại phía sau. Hấp lực
"chu cáp thần công" trong mình Ðoàn Dự tuy mãnh liệt thật nhưng đồng
thời giữ cả năm tay đại cao thủ thế nào nổi?
Bảo Ðịnh Ðế thấy Thiên Nhân kêu vị đó bằng sư thúc vội vàng cáo lỗi:
-Vãn bối không biết Khô Vinh trưởng lão ở đây, chưa kịp kính bái, tội nhiệt thật nặng.
Nguyên
vị trưởng lão đây là một vị tiền bối vào bậc cao nhất trong chùa Thiên
Long. ít người trong chùa được thấy mặt trưởng lão.
Bảo Ðịnh Ðế cũng
chỉ nghe danh chưa từng được bái kiến. Người ta đồn trưởng lão chỉ một
mình luyện khô thuyền trong viện Song Thụ, hơn mười năm trời nay không
ai nhắc đến, họ cho là trưởng lão viên tịch rồi.
Khô Vinh trưởng lão nói:
-Công
việc phải tuỳ theo tầm quan trọng hoặc thời gian trì hoãn hay gấp rút
của nó mà làm. Lời ước hẹn của Ðại Luân Minh Vương chớp mắt đã đến. Ðoàn
Chính Minh ngươi coi xem sẽ rõ.
Bảo Ðịnh Ðế ngạc nhiên nghĩ thầm Ðại
Luân Minh Vương trên Ðại Tuyết Sơn là một bậc Phật pháp uyên thâm, có
dây mơ rễ má gì với bọn mình đâu?
Thiên Nhân phương trượng lấy trong bọc ra một phong thơ ánh vàng rực rỡ trao tay cho Bảo Ðịnh Ðế.
Bảo
Ðịnh Ðế đón lấy, cầm tay nhấc thấy khá nặng rất lấy làm kỳ. Thì ra
phong bì làm bằng vàng dát mỏng. Trên phong bì dùng bạch kim khảm thành
mấy chữ trắng viết theo lối chữ Phạn.
Bảo Ðịnh Ðế thông hiểu Phật học, đại ý chữ trên phong bì là: "Kính đệ phương trượng chùa Thiên Long".
Bảo
Ðịnh Ðế mở phong bì vàng ra, bên trong có một lá thư cũng bằng vàng dát
cực mỏng. Thư cũng viết bằng chữ Phạn, đại ý nguyên văn như sau: "Ngày
nọ tiểu Vương cùng Mộ Dung tiên sinh ở Cô Tô đến hội họp tại Thiên Tần
đã cùng nhau kết mối thâm giao, đàm luận về võ công trên đời hiện nay.
Mộ Dung tiên sinh có ngỏ lời rất lấy làm tiếc chưa được đọc cuốn kinh
Lục Mạch Thần Kiếm của quý tự và biết quý tự rất tôn sùng cuốn kinh đó.
Tiểu Vương vừa được tin Mộ Dung tiên sinh đã quy tiên rất đỗi xót
thương. Ðể báo đáp tình tri kỷ, cầu xin quý tự cho Tiểu Vương quyển kinh
đó để đốt trước mộ Mộ Dung tiên sinh. Trong ngày hôm nay sẽ đến lấy,
xin chớ chối từ. Tiểu vương xin đem báu vật đến báo đền, chẳng dám lấy
không. Ðại tuyết sơn Ðại Luân Minh Vương kính thư". Chữ trong thư cũng
khảm rất tinh vi bằng bạch kim do tay thợ khéo và phải tốn bao nhiêu
công phu cùng ngày giờ mới chế tạo thành bức thư. Hãy nói một cái phong
bì. Hãy nói một cái phong bì, một lá thư như vậy cũng đã là bảo vật hiếm
có, đủ biết Ðại Luân Minh
Vương là tay hào phóng xa xỉ đến mực nào rồi.
Bảo
Ðịnh Ðế vốn biết Ðại Luân Minh Vương là Hộ quốc pháp vương nước Thổ
Phồn. Cứ năm năm một lần Ðại Luân Minh Vương lại mở đàn giảng kinh,
thuyết pháp.
Các vị cao tăng đại đức nước Thiên Trúc bên Tây Vực đều
đến chùa Ðại Luân trên núi Tuyết Sơn hội họp đông đủ để nghiên cứu kinh
điển. Sau kỳ thuyết pháp ra về ai cũng hoan hỷ ca tụng Minh Vương.
Bảo
Ðịnh Ðế lại nhớ trong thư Ðại Luân Minh Vương có nói cùng Mộ Dung tiên
sinh đàm luận võ công, kết bạn tri kỷ. Vậy thì hiển nhiên Minh Vương
cũng là một tay cao thủ trong võ lâm. Hạng người đại trí tuệ không học
võ thì thôi, khi họ đã đi vào đường đó tất nhiên không phải tay vừa.
Bảo Ðịnh Ðế còn đang ngẫm nghĩ thấy Thiên Nhân phương trượng nói:
-Cuốn
Lục Mạch Thần Kiếm là vật chí bảo của bản tự, lại là pháp yếu môn võ
tối cao của họ Ðoàn nước Ðại Lý. Chính Minh! Môn võ cao thâm của họ Ðoàn
nước Ðại Lý hiện ở chùa Thiên Long đây. Ngươi là người trần tục thì dù
là con cháu trong nhà nhưng những điều bí ẩn này cũng không thể tiết lộ
cho ngươi biết được.
Bảo Ðịnh Ðế nói:
-Thưa vâng! Ðiều đó vãn bối đã biết rồi
Thiên Quan nói:
-Chùa
đây tàng trữ pho Lục Mạch Thần Kiếm kinh, ngay Chính Minh, Chính Thuần
còn chưa hay, sao bọn Mộ Dung ở Cô Tô lại biết được?
Thiên Tham tức giận nói:
-Ðại
Luân Minh Vương đã nổi tiếng khắp thế gian là một vị cao tăng, sao lại
không thông tình lý? Dám cưỡng ép bọn ta đòi lấy bảo kinh mà được bao
giờ.
Chính Minh cùng phương trượng sư huynh nên biết rằng nếu họ tử
tế tất không đến mà họ đã đến là chẳng tử tế gì. Ðây là một việc trọng
đại, bọn ta không tác chủ được, phải thỉnh Khô Vinh sư thúc nắm vững đại
cuộc cho.
Thiên Nhân lại nói:
-Chùa nhà có pho kinh này thật
nhưng nói ra lại xấu hổ. Bọn ta đây đã không ai đủ tài lực để luyện
thành môn võ trong sách thì chớ, cả những điều ảo diệu trong kinh cũng
chưa hiểu nổi. Ðại Luân Minh Vương biết đây có pho kinh này mà vẫn dám
đến yêu sách thì ra y ỷ mình quá, không còn sợ gì môn tuyệt học của Lục
Mạch Thần Kiếm nữa.
Khô Vinh lạnh lùng nói:
-Y không dám coi
thường Lục Mạch Thần Kiếm đâu. Theo lời trong thư y rất kính phục Mộ
Dung tiên sinh, mà Mộ Dung tiên sinh ao ước pho kinh này vô cùng.
Ðại
Luân Minh Vương đã cân nhắc lắm đấy. Y biết trong chùa này không có cao
nhân siêu quần xuất chúng, sách quý mà chẳng ai luyện nổi để đó thật
uổng mà thôi.
Thiên Tham lớn tiếng nói:
-Nếu y ngưỡng mộ cuốn
kinh, muốn cầu khẩn mượn về xem mình nể là bậc cao tăng cho mượn thì
được, chẳng cho cũng thôi có phải tử tế không? Ðằng này y lại bảo lấy về
đốt đi cho kẻ đã chết rồi, thế mới đáng giận. Có phải y coi chùa Thiên
Long ta chẳng ra gì cả?
Thiên Tướng thở dài than rằng:
-Sư đệ
không nên vì thế mà đem lòng giận dữ. Ta xem Ðại Luân Minh Vương không
phải là hạng người càn rỡ. Ðó chẳng qua vì y quá tình thiết tha với Mộ
Dung tiên sinh mà ra. Hỡi ôi! Bạn vàng đã qua đời, không còn bao giờ
được thấy mặt cố nhân, lòng quyến luyến khôn bề bộc lộ. ý chừng y muốn
bắt chước Ngô Quý Chi thuở xưa đem bảo kiếm treo trên mồ bạn.
Bảo Ðịnh Ðế hỏi:
-Thiên Tướng đại sư có biết Mộ Dung tiên sinh là người thế nào không?
Thiên Tướng lắc đầu đáp:
-Ta
chưa từng quen biết, song cứ suy Ðại Luân Minh Vương là nhân vật thế
nào mà còn khiêm ngưỡng cũng đủ biết Mộ Dung tiên sinh tất phải là bậc
phi thường.
Thiên Nhân phương trượng nói:
-Cứ lời sư thúc vừa xét
đoán thì thế địch lợi hại vô cùng. Chúng ta không luyện mau những phép
Lục Mạch Thần Kiếm thì e rằng kinh báu bị người cướp và Thiên Long tự
đến phải thất điên bát đảo mất. Khổ một điều là luyện môn thần kiếm chủ
chốt ở nội lực phi thường, không thể chỉ trong chốc lát mà nên. Chính
Minh đừng tưởng bọn ta không quan tâm đến vụ thằng cháu Dự bị trúng độc
đâu, chỉ e ai nấy nội lực đều bị tổn hại quá nhiều, cường địch lại sắp
đến, không còn đủ sức lực để đối phó. Xem ra tuy y bị trúng độc nặng lắm
đấy nhưng trong vài ngày chưa đáng lo ngại gì đến tính mạng. Hãy để y
tĩnh dưỡng ở đây mấy bữa, nếu bệnh tình có biến chuyển, chúng ta sẽ liệu
cách chữa trị. Chờ khi đuổi xong kẻ địch, chúng ta sẽ dùng toàn lực khu
trục tà độc cho y. Vậy ngươi nghĩ sao?
Bảo Ðịnh Ðế tuy rất lo cho
bệnh tình Ðoàn Dự, song Ðế là người có kiến thức bao quát, nhà Vua hiểu
rằng chùa Thiên Long là căn bản của họ Ðoàn nước Ðại Lý, mỗi khi Hoàng
gia gặp hoạn nạn là chùa lại dốc hết lực lượng ra cứu viện,
chuyển
nguy thành yên. Họ Ðoàn nước Ðại Lý lập quốc từ đời Ngũ Ðại đến nay đã
được 158 năm, trung gian bao lần phải chịu phong ba. Vậy mà xã tắc không
bị nghiêng đổ phần lớn là nhờ ở chùa Thiên Long. Chùa có một mối quan
hệ vô cùng trọng đại đến việc giữ vững kinh kỳ. Hiện nay chùa lâm vào
tình trạng bất an thì có khác gì hoàng thành gặp cơn nguy biến? Nhà Vua
nghĩ vậy liền đáp:
-Phương trượng thực là nhân đức. Vãn bối cảm kích
vô cùng. Trong công cuộc đối phó với Ðại Luân Minh Vương liệu Chính Minh
này có thể góp được phần nhỏ đường dây tơ sợi tóc nào chăng?
Thiên Nhân trầm ngâm một lát rồi đáp:
-Kể
ra thì ngươi là tay cao thủ nhất trong những người họ Ðoàn còn ở ngoài
thế tục đó. Thêm ngươi vào chống địch, lực lượng sẽ tăng lên nhiều. Có
điều để người tục tham dự vào việc tranh đấu giữa các đệ tử nhà Phật thì
không khỏi bị Ðại Luân Minh Vương cười bọn Thiên Long ta không có
người.
Bỗng thấy Khô Vinh nói:
-Việc luyện Lục Mạch Thần Kiếm nếu
cứ riêng biệt để một người thì đây không ai làm nổi. Vậy bọn ta phải tìm
ra một phương pháp khôn ngoan: Mỗi người tập một mạch và phải có sáu
người, lúc đối địch để một người ra tay, còn năm người kia đứng ngoài
dồn nội lực vào tiếp viện. Chỉ cần một điều đừng để đối phương nhìn rõ
cơ quan của mình là chế phục được bên địch. Kể ra cách này cũng không
được chính đại quang minh nhưng tình thế gấp rút quá rồi, ta phải tòng
quyền chứ biết sao bây giờ? Có điều chùa Thiên Long này tính đi tính lại
không tìm đâu ra được sáu tay cao thủ, bản lĩnh tương đương nhau. Chính
Minh ngươi đến thế là vừa vặn, nhưng ngươi phải xuống tóc, mặc áo thầy
chùa vào mới được.
Trưởng lão càng nói càng hăng, tựa hồ lòng người rất là phấn khởi. Tuy nhiên giọng nói vẫn lạnh lùng.
Bảo Ðịnh Ðế thưa:
-Chính Minh này vốn có chí nguyện xuất gia đầu Phật. Có điều kỳ công về kiếm thần chưa biết mảy may nào cả.
Về Đầu Trang Go down
Oz Vessalius
Tướng Quân
Tướng Quân
Oz Vessalius

Tổng số bài gửi : 95
Điểm Thưởng : 5149
Độ Tin Tưởng : 104
Join date : 05/01/2011

Thiên Long Bát Bộ - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ   Thiên Long Bát Bộ - Page 2 I_icon_minitimeThu Jan 06, 2011 5:24 pm

Hồi 25

Ðại Luân Minh Vương
Bảo Ðịnh Ðế vừa nói xong, Thiên Tham hoà thượng cướp lời vội đáp:
-Nếu theo phương pháp khôn ngoan của Khô Vinh đại sư vừa nói thì ngươi đã tự hiểu cả rồi, chỉ cần nhớ thêm phép kiếm nữa là xong.
Bảo Ðịnh Ðế ngạc nhiên hỏi lại:
-Vãn bối chưa hiểu, xin đại sư chỉ giáo rõ cho!
Thiên Nhân phương trượng nói:
-Ngươi hãy ngồi xuống đây nói chuyện.
Bảo Ðịnh Ðế ngồi xếp bằng xuống bồ đoàn. Thiên Nhân tiếp:
-Phép Lục Mạch Thần Kiếm không phải là đánh kiếm thật, mà là dùng chỉ lực trong phép Nhất Dương Chỉ biến hoá thành kiếm khí. Chỉ có thực chất chứ không hình thể rõ rệt cho nên phép này có thể gọi là vô hình kiếm. Trên cổ tay ngươi có sáu mạch là: Thái Âm, Quyết Âm, Thiếu Âm, Thái Dương, Dương Minh, Thiếu Dương.
Thiên Nhân vừa nói vừa thò tay vào phía sau cái bục lấy ra một cuốn trục lụa.
Vì lâu ngày quá lụa đã biến thành mầu vàng. Thiên Tham tiếp lấy treo lên vách,mở cuộn trục ra. Nguyên cuộn trục này cuốn bức tranh vẽ đồ hình một người đàn ông khỏa thân, chua rõ các huyệt. Các đường chuyển vận lưu thông về sáu mạch vẽ mầu xanh, đỏ.
Bảo Ðịnh Ðế là bậc cao thủ về phép Nhất Dương Chỉ, mà kinh Lục Mạch Thần Kiếm lại lấy Nhất Dương Chỉ làm căn bản và cùng một đường lối võ công của họ Ðoàn nên nhà Vua chỉ xem qua đã hiểu ngay.
Thiên Nhân lại nói:
-Chính Minh! Ngươi làm chúa tể nước Ðại Lý, việc cải trang chỉ là quyền nghi nhất thời nếu để đối phương khám phá ra thì rất tổn hại đến uy danh cả nước, được bề nọ mất bề kia, nên chăng tuỳ ý ngươi tự quyết lấy.
Bảo Ðịnh Ðế chắp tay đáp:
-Mạnh dạn thẳng tiến mới là người dũng, không suy hơn tính thiệt mới gọi là nghĩa.
Thiên Nhân nói:
-Thế thì hay lắm! Kinh Lục Mạch Thần Kiếm này không truyền cho con em ở ngoài tục luỵ. Ngươi phải xuống tóc ta mới truyền thụ cho.
Bảo Ðịnh Ðế đứng lên, bước ra quỳ xuống đất nói:
-Xin đại sư mở lượng từ bi.
Khô Vinh đại sư nói:
-Ngươi lại đây ta là phép thế phát cho.
Bảo Ðịnh Ðế rảo bước tới, quỳ ở phía sau Khô Vinh. Lúc đó Ðoàn Dự cũng đứng dưới đất, tinh thần đang tỉnh táo, nghe mấy vị đối thoại nghĩ thầm trong bụng: các ông bàn đi tính lại, té ra việc này có liên quan đến bọn Mộ Dung. Chàng thấy bá phụ muốn thay đổi trang phục, mặc áo thầy tu không khỏi ngấm ngầm kinh dị.
Bỗng thấy Khô Vinh đại sư đưa tay phải vòng lại phía sau giữ đầu Bảo Ðịnh Ðế.
Bàn tay này chỉ còn da bọc lấy xương. Khô Vinh đại sư vẫn không xoay người lại,miệng lâm râm đọc kệ, cất tay lên một cái bao nhiêu tóc Bảo Ðịnh Ðế rơi xuống đất hết, còn lại cái đầu trụi nhẵn thín hơn là lấy dao cạo.
Ðoàn Dự cả kinh còn các vị Thiên Quan, Thiên Nhân trong lòng bội phục vô cùng lẩm bẩm: "Khô Vinh lão thúc tu luyện khô thuyền công lực đã cao thâm đến mức này, thật là hãn hữu".
Khô Vinh đại sư dõng dạc tuyên bố:
-Ngươi đã quy y cửa Phật, đặt cho pháp hiệu Thiên Trần.
Bảo Ðịnh Ðế đáp:
-Tạ ơn sư phụ đã ban pháp danh cho.
Ở nơi cửa Phật không kể đến vai vế gia đình ngoài trần tục, nên Thiên Nhân phương trượng đứng vào hàng thúc phụ của Bảo Ðịnh Ðế nhưng từ đây Bảo Ðịnh Ðế đã chịu phép thế phát của Khô Vinh trở thành sư đệ Thiên Nhân.
Khô Vinh lại nói:
-Không chừng sớm tối hôm nay Minh Luân Ðại Vương sẽ tới. Thiên Nhân!
Ngươi đem ngay những điều bí mật về Lục Mạch Thần Kiếm truyền thụ cho Thiên Trần.
Thiên Nhân vâng lời, đưa Bảo Ðịnh Ðế đến trước đồ hình về kinh mạch treo trê n vách.
Bảo Ðịnh Ðế chuyên trị mạch Thiếu Dương, đường mạch đi ra sao từ đâu đến đâu, qua những huyệt đạo nào Thiên Nhân nhất nhất chỉ dẫn tường tận,đồng thời giảng cho Bảo Ðịnh Ðế về cách phóng kiếm khí do huyệt "Quan xung" ở
ngón tay vô danh. Bảo Ðịnh Ðế y theo lời giảng dạy, vận động nội lực từ ngón tay vô danh phát ra những tiếng vù vù, chân khí từ huyệt "quan xung" phóng ra mãnh liệt.
Khô Vinh đại sư cả mừng nói:
-Nội lực của ngươi đã đến mức phi thường. Kiếm pháp này tuy biến ảo khôn lường, song kiếm khí đã thành hình thì có thể tuỳ ý người sử dụng. Thiên Nhân nói:
-Sư thúc luyện "Thương kiếm" ở ngón tay cái. Tôi luyện "Dương kiếm" ở ngón tay trỏ. Thiên Quan sư huynh luyện "Xung kiếm" ở ngón tay giữa. Thiên Trần sư đệ luyện "Quan xung kiếm" ở ngón vô danh. Thiên Tướng sư đệ luyện "thiếu xung kiếm" ở ngón út. Thiên Tham sư đệ luyện "Thiếu trạch kiếm" ở ngón út bên tay trái. Việc gấp đến nơi, không thể trì hoãn được nữa chúng ta phải bắt đầu luyện ngay từ bây giờ.
Nói xong mở hết sáu bức đồ hình treo lên bốn bức vách. Trên đồ hình nào cũng vẽ đủ đường ngang, đường dọc, đường giáp nhau, đường vòng tròn và đường cánh cung. Mỗi vị đều theo đồ hình mà luyện đường kiếm khí của mình, giơ ngón tay lên không nào điểm nào vạch.
Ðoàn Dự đứng đó cảm thấy chân khí trong người rung động nhộn lên, so với trước đây còn tệ hại hơn, không thể chịu đựng được nữa vì nhận thêm chân khí của Bảo Ðịnh Ðế cùng năm nhà sư chùa Thiên Long tống vào. Nhưng chàng thấy bá phụ cùng các phương trượng đang định thần, dụng công luyện kiếm khí nên không dám lên tiếng sợ kinh động mọi người. Chàng chỉ ngồi trân trân ra đó hồi lâu, thấy trong người càng thêm bứt rứt buồn tẻ, ngẫu nhiên nhìn lên đồ hình vẽ kinh mạch treo trên vách. Giữa lúc ấy chàng cảm thấy ngón tay trái giật lên không ngớt,dường như bên trong có con gì muốn cắn da thịt để chui ra. Chỗ đầu ngón tay cắn nhôn nhốt đó đúng chỗ trên hình chua rõ là huyệt "hội tông". Ðoàn Dự nghiêng đầu nhìn bá phụ thấy người đang ngưng thần, chăm chú để mắt dán vào mạch "thiếu dương đi tam tiêu" trên bản đồ, ngón tay vô danh bên phải đang búng tanh tách.
Ðoàn Dự thuận mắt liền ngó theo đường vạch đỏ từ huyệt "hội tông" ra lạc "tam dương" qua đường "tứ độc" nhập vào khu "thiên tỉnh". Chàng đem tâm theo dõi kinh mạch thì chân khí trong người chàng đang tả xung hữu đột tự nhiên được
tâm ý hướng dẫn vào đường lối cũng đi từ cổ tay chuyển qua cẳng tay, đi lên khuỷu tay ngược lên cánh tay cho đến đầu, bả vai. Chân khí theo đường kinh mạch chuyển vận rất có thứ tự. Toàn thân chàng đang bứt rứt khó chịu bỗng nhiên trở nên khoan khoái.
Ðoàn Dự định thần tĩnh trí đưa đường chân khí đó vào trong "tam tiêu". Nhưng dẫn chân khí được vào trong "tam tiêu" phải là tay giỏi nội công thì chàng lại chưa am hiểu bí quyết đó. Chỉ trong thời gian uống cạn chén trà chàng không chịu nổi được nữa kêu lên "ối chao! ối chao!".
Bảo Ðịnh Ðế chợt nghe tiếng la cấp bách vội hỏi:
-Dự nhi! Con làm sao vậy?
Ðoàn Dự đáp:
-Cháu thấy trong người không biết bao nhiêu là luồng chân khí đang chạy nhộn lên không thể chịu nổi. Cháu đem tâm theo dõi những vạch đỏ trên đồ hình của bá phụ, chân khí cũng cuồn cuộn chảy về huyệt "đan điền". Trời ơi có lẽ huyệt này đầy quá, tắc nghẽn, bụng cháu muốn nổ tung ra bây giờ.
Có ai qua cầu mới biết sự phản ứng về nội công làm cho ruột gan chướng lên như muốn nổ tung ra mà người ngoài trông chẳng thấy trạng thái gì khác lạ.
Bảo Ðịnh Ðế là người có bản lãnh về nội công rất thâm hậu, biết rõ rằng chân khí nhiều đến nỗi bành chướng huyệt đan điền thì ít ra cũng phải luyện nội công đên 20 năm, đằng này Ðoàn Dự chưa biết võ công mà trạng thái này xuất hiện thì chỉ là do tà độc trong người đến lúc phát động.
Bảo Ðịnh Ðế kinh dị nghĩ thầm: "nếu không dẫn khí vào chỗ chứa tất sinh tai vạ nhưng lại e đưa tà khí vào sâu nội phủ
sau này trục xuất rất là khó khăn". Nhà Vua bình nhật giải quyết mọi vấn đề nghi nan một cách quả quyết mau lẹ song đứng trước mối hoạ phúc một đời của Ðoàn Dự chỉ sai một chút là lập tức nguy hiểm đến tính mạng chàng nhà Vua không khỏi do dự. Nhìn mắt chàng hào quang tán loạn dường sắp nổi cơn điên không còn đủ thì giờ nghĩ tới nghĩ lui được nữa nhà Vua quyết định tạm thời cứu nguy trước mắt rồi sẽ liệu bèn bảo Ðoàn Dự:
-Dự nhi! Ta dạy con phép dẫn khí về nơi trống rỗng.
Vừa nói vừa truyền thụ phương pháp này cho chàng. Môn nội công họ Ðoàn nước Ðại Lý quả tinh diệu hơn đời, chỉ trong khoảnh khắc chàng đã vận chuyển được chân khí vào các tạng phủ. Chàng cảm thấy thân thể như thư thái nhẹ nhàng tựa hồ như muốn bay bổng lên không.
Bảo Ðịnh Ðế thấy Ðoàn Dự lộ vẻ vui tươi trong lòng vẫn không khỏi lo ngại chỉ sợ tà khí từ đây cố kết trong nội tạng khó lòng khu trừ cho tuyệt diệt, phải mang luỵ suốt đời, bất giác thở dài sườn sượt.
Khô Vinh đại sư thuỷ chung vẫn tĩnh toạ, quay mặt vào vách song hai người đối thoại câu nào cũng lọt vào tai. Ðại sư thấy Bảo Ðịnh Ðế truyền thụ xong phép "đạo khí quy hư" rồi cất tiếng thở dài liền lên tiếng bảo nhà Vua:
-Thiên Trần! Việc đời nhất thiết đều có tiền định cả. Cát hung hoạ phúc đều do lòng người mà ra. Ngươi bất tất quá lo xa cho người, phải gấp rút luyện đường "thiếu dương kiếm" đi!
Bảo Ðịnh Ðế vâng lời, trấn định tâm thần rồi tiếp tục luyện môn "thiếu dương kiếm".
Trong thân thể Ðoàn Dự chân khí nhiều quá, đầy rẫy khắp nơi không thể chốc lát thu về hết ngay được song chàng đã biết phương pháp thực hành mỗi lúc một thuần thục.
Sáu nhà sư trong tăng xá ai nấy gia công luyện kiếm thâu đêm, bất giác trời đã rạng đông. Tiếng gà xao xác gáy dồn. Ðoàn Dự cảm thấy chân khí trong mình không còn chạy nhộn lên nữa. Chàng đứng dậy cử động chân tay, vẫn thấy bá phụ cùng năm vị cao tăng chuyên tâm luyện kiếm, chàng không dám mở cửa ra ngoài, cũng không dám lên tiếng, e làm kinh động mọi người. Không có việc gì cũng buồn, chàng lại trông lên đồ hình của bá phụ, hết nhìn nhận về các đường kinh mạch lại nhìn nhận đến lời giảng giải về kiếm pháp "thiếu dương".
Trong lúc đang nhìn nhận suy nghĩ, bỗng nhiên cảm thấy một luồng chân khí từ trong huyệt "đan điền" tuôn đến đầu bả vai, qua các huyệt "nao hội", "tiểu lạc","thanh lãnh uyển" nhập vào huyệt "quan xung" ở ngón vô danh. Ðầu ngón tay
chàng chướng lên rất khó chịu. Chàng liền nghĩ: âu là ta dẫn khí trở về huyệt "đanđiền". Chàng tư tưởng như vậy quả nhiên luồng chân khí lại qua những đường huyệt trở về "đan điền". Thế là Ðoàn Dự đã vô tình học được phương pháp căn bản về nội công vào hạng thượng thừa. Nhưng đó mới chỉ là cách cho chân khí chạy đi chạy về, chàng đã lấy làm vui sướng vô cùng. Trong mầu ni đường có ba nhà sư thì Thiên Tướng đại sư là người vui vẻ dễ thân cận hơn hết. Ðoàn Dự liền nghiêng đầu về nhà sư này để xem đồ hình từ huyệt "thiếu âm" đến "tâm kinh" của ông. Ðồ hình này bắt nguồn từ huyệt "cực toàn" dưới nách, qua huyệt "thanh linh", "thiếu hải" ở khu vực khuỷu tay rồi do các huyệt "linh đạo", "thông lý", "thần môn","thiếu phủ" ăn thông vào huyệt "tiểu xung" trên ngón tay út. Ðoàn Dự lại đem hết tinh thần nghĩ vào đó, quả nhiên một luồng chân khí lại do những kinh mạch này đi ra theo đúng ý nghĩ của mình. Rồi chàng lần lượt nhìn những đồ hình khác, cũng theo phương pháp đó, bất tất phải nói hết cho rườm lời. Mất nửa ngày nhìn nhận chàng đã thông suốt được cả kinh mạch trên sáu bức đồ hình.
Chàng cảm thấy tinh thần sảng khoái, quên cả đói khát. Sau không biết làm gì nữa để giết thời giờ Ðoàn xem đến lời giảng dạy về kiếm pháp trên sáu bức đồ hình về sáu thế kiếm "thiếu thương", "thiếu dương", "trung xung", "quan xung", "thiếu xung" và "thiếu trạch".
Nhưng chàng chỉ thấy những vạch đen, vạch đỏ đi ngang đi dọc hoặc giao tiếp nhau trông rối mắt khó lòng nhận ra được. Chàng lẩm bẩm: "những đường kiếm rắc rối thế này thì làm sao mà nhớ được?". Rồi chàng tự hỏi: "hai chú tiểu sao mãi không thấy mang cơm chay đến cho mình? Mình phải ra ngoài tìm chút gì ăn cho đỡ đói". Ngay lúc ấy, mũi chàng ngửi thấy mùi gỗ đàn hương thơm ngát, tiếp theo có tiếng hát kệ bằng Phạn ngữ từ xa vẳng lại nghe không rõ. Khô Vinh đại sư buồn rầu nói:
-Hay quá! Hay quá Ðại Luân Minh Vương đã tới. Các ngươi luyện kiếm pháp kết quả ra sao?
Thiên Tham đáp:
-Tuy chưa được thuần thục nhưng cũng đủ để nghênh địch.
Khô Vinh lại bảo Thiên Nhân:
-Ta không đi được! Ngươi ra mời Ðại Luân Minh Vương vào mầu ni đường nói chuyện.
Thiên Nhân vâng lời đi ra. Thiên Quan lấy năm chiếc chiếu trải ra đầu đằng đông rồi chính mình ngồi vào chiếu đầu. Thiên Tướng ngồi chiếu thứ hai, Bảo Ðịnh Ðế ngồi chiếu thứ tư, chiếu thứ ba dành cho Thiên Nhân còn Thiên Tham
ngồi chiếu thứ năm.
Ðoàn Dự không được ngồi đứng ở phía sau Bảo Ðịnh Ðế. Khô Vinh và bọn Thiên Quan biết cường địch đã đến còn ôn lại lời giảng giải trên đồ hình lần cuối cùng rồi mới cuốn lại để trước mặt Khô Vinh.
Bảo Ðịnh Ðế bảo Ðoàn Dự:
-Dự nhi! Lát nữa sẽ xảy ra cuộc ác chiến, trong nhà kiếm khí phóng vùn vụt ra khắp mọi chỗ, rất là nguy hiểm. Ta không thể phân tâm ra bảo vệ con được vậy con ra ngoài kia nghe!
Ðoàn Dự rất đỗi băn khoăn nghĩ bụng: "nghe miệng lưỡi các người thì lão Ðại Luân Minh Vương lợi hại lắm đấy mà bá phụ mình bữa nay mới luyện "quan xung kiếm pháp" lần đầu, chưa chắc đã địch được lão, nếu có chỗ sơ hở biết làm thế nào bây giờ?". Nghĩ vậy chàng đáp:
-Bá bá ơi! Cháu... cháu phải ở luôn bên cạnh bá bá. Mình bá bá ở lại đấu kiếm với họ, cháu chẳng... yên tâm chút nào.
Mấy tiếng sau chàng vừa nói vừa nghẹn ngào.
Bảo Ðịnh Ðế cũng động lòng nghĩ thầm: "Thật là một đứa bé hiếu thảo".
Khô Vinh đại sư gọi:
-Dự nhi! Cháu lại ngồi trước mặt ta đây! dù Ðại Luân Minh Vương có lợi hại đến đâu cũng không động đến chân lông cháu được.
Lời đại sư tuy lạnh lùng song ngụ ý cao ngạo.
Ðoàn Dự vâng lời, khom lưng đến ngồi trước mặt Khô Vinh nhưng không dám ngoảnh lại nhìn đại sư, chỉ quay mặt
vào vách. Khô Vinh cao hơn chàng nhiều, che lấp hẳn chàng đi.
Bảo Ðịnh Ðế vừa cảm kích lại vừa yên dạ. Nhà Vua nghĩ đại sư vừa lấy phép khô thuyền để xuống tóc cho mình, một môn thần công đó cũng đủ ngạo đời rồi.
Còn việc bảo vệ Ðoàn Dự tất đại sư thừa sức.
Trong mầu ni đường yên lặng như tờ. Lát sau nghe tiếng Thiên Nhân phương trượng mời:
-Minh Vương pháp giá đã quang lâm, xin mời người vào mầu ni đường đàm thoại.
Rồi thấy tiếng người khác đáp:
-Xin phương trượng đi trước cho tôi theo gót.
Ðoàn Dự nghe giọng nói của khách lạ có vẻ ôn hòa, khiêm nhường đúng lễ,tuyệt không phải là hạng cường hung ác bá. Chàng lại nghe tiếng chân bước có tới hàng chục người.
Ðoạn thấy Thiên Nhân mở cửa nói:
-Xin rước Minh Vương vào cho!
Ðại Luân Minh Vương đáp:
-Xin lỗi.
Minh Vương bước vào trong nhà, hướng vào phía Khô Vinh chắp tay thi lễ nói:
-Kẻ vãn bối bên nước Thổ Phồn là Cưu Ma Trí xin tham kiến tiền bối đại sư.
Ðoạn đọc luôn bốn câu kệ:

Hữu thường mà hoá vô thường
Bốn bề song thụ một trường khô vinh
Ðông, Tây, Nam, Bắc phân minh
Ðã hình như giả lại hình như không.

Ðoàn Dự lẩm bẩm: "Thế ra vị Ðại Luân Minh Vương này tên gọi Cưu Ma Trí,nhưng không biết bốn câu kệ ông vừa đọc có ngụ ý gì?".
Khô Vinh đại sư không khỏi giật mình nghĩ thầm: "Ðại Luân Minh Vương thật là người học vấn uyên thâm, tinh tế, tiếng đồn quả đã không ngoa. Lão vừa mới gặp mặt lần đầu đã khám phá ra lai lịch phép luyện khô thuyền của mình".
Nguyên trước đức Thích Ca mầu ni tịch giữa những cặp sa la tại thành Câu Thi Na, bốn mặt Ðông, Tây, Nam, Bắc đều có hai cây này mà mặt nào cũng cây tươi cây héo nên gọi là "Tứ khô tứ vinh". Trong kinh Phật giải thích rằng: hai cây ở mặt Ðông tượng trưng cho thuyết "thường dã vô thường", hai cây ở phương Tây tượng trưng cho thuyết "ngã dữ vô ngã", hai cây phương Nam tượng trưng cho thuyết "lạc dữ vô lạc", hai cây ở phương Bắc tượng trưng cho thuyết "tĩnh dữ vô tĩnh". Những cây tươi tốt rườm rà tượng trưng cho sự có thật là "hữu thường", "hữu ngã", "hữu lạc", "hữu tĩnh". Trái lại những cây khô héo tàn tạ tượng trưng cho sự không có gì hết: vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tĩnh. Ðức Phật Như Lai (Thích Ca) tịch giữa tám cây tượng trưng cho tám thuyết trên, hay nói một cách khác là phi khô, phi vinh,
phi giả, phi không.
Khô Vinh đại sư trên mười năm trời tu luyện khô thuyền mới tu được đến cõi "bán khô, bán vinh" chứ chưa được đến cõi cao hơn là "phi khô phi vinh" hay "diệc khô diệc vinh" nên đại sư vừa nghe mấy câu kệ của Ðại Luân Minh Vương không khỏi giật mình đáp:
-Minh Vương từ xa đến đây, lão tăng không kịp đi đón xin mở lượng từ bi.
Ðại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí nói:
-Uy danh chùa Thiên Long tiểu tăng bấy lâu ngưỡng mộ. Hôm nay được diện yết tôn nghiêm hoan hỉ vô cùng.
Thiên Nhân phương trượng mời ngồi, Cưu Ma Trí tạ ơn rồi mới ngồi xuống.
Ðoàn Dự chưa trông rõ tướng mạo Ðại Luân Minh Vương liền nép mình vào cạnh Khô Vinh, ngấp nghé trông ra thì thấy một vị sư mặc áo thầy chùa sắc vàng, chưa tới 50 tuổi, áo vải giày cỏ, cũng chẳng có gì khác người thường, song vẻ mặt tươi hơn hớn dường như minh châu bảo ngọc tự có ánh hào quang.
Chàng mới thấy mặt đã sinh lòng kính cẩn, muốn được thân cận. Chàng lại nhìn qua khe cánh cửa ra ngoài thấy 8, 9 gã hán tử đứng đó, cao có thấp có, mặt mũi tên nào cũng đanh ác,đáng ghê, không ra tuồng nhân sĩ ở Trung Nguyên. Ðó là những người tuỳ tùng mà Minh Vương đem từ Trung Thổ đến.
Cưu Ma Trí chắp tay nói:
-Tuy đức Phật có dạy rằng: không sống, không chết, không nhơ, không sạch song tiểu tăng tư chất ngu muội chưa suốt lẽ yêu, ghét, sống, chết. Tiểu tăng có ông bạn tâm giao người đất Cô Tô, nước Ðại Tống ở họ Mộ Dung. Năm trước tiểu tăng hạnh ngộ ông bạn này tại nước Thiên Trúc rồi cùng ông đàm luận võ nghệ.
Mộ Dung tiên sinh biết hết các môn võ khắp thiên hạ một cách rất tinh tường.
Trong mấy ngày, tiểu tăng được tiên sinh chỉ giáo cho những điểm nghi ngờ nên được hiểu hết. Không ngờ bậc đại anh hùng chẳng được sống lâu, vội về cực lạc.
Tiểu tăng có điều thỉnh nguyện khó nghe, xin các vị trưởng lão mở lượng từ bi cho.
Thiên Nhân đã biết ý Ðại Luân Minh Vương liền đáp:
-Minh Vương cùng Mộ Dung tiên sinh có mối nhân duyên kết bạn một hồi. Nay duyên phận đã hết thì thôi hà tất phải miễn cưỡng môi cầu điều này điều khác. Mộ Dung tiên sinh đã về thế giới cực lạc, lễ Phật nơi toà sen, còn để ý đâu đến cái nghề võ ở nhân gian nữa? Minh Vương làm việc này chẳng hoá ra rắn vẽ thêm chân ư?
Cưu Ma Trí nói:
-Lời phương trượng chỉ điểm cho quả là đúng lý, song tiểu tăng vốn tính cố chấp mê si, đã đóng cửa 40 ngày mà không sao quên được người tri kỷ. Năm đó Mộ Dung tiên sinh có đề cập đến kiếm pháp khắp thiên hạ, xác nhận môn Lục Mạch Thần Kiếm tại chùa Thiên Long đây đứng vào bậc nhất. Tiên sinh ân hận chưa được xem qua, đó là một điều tiên sinh suốt đời hối tiếc.
Thiên Nhân nói:
-Tệ tự ở tận biên cương hẻo lánh, được Mộ Dung tiên sinh có lòng quá yêu, thực là một vinh dự cho chúng tôi. Nhưng không hiểu tại sao ngay ngày đó tiên sinh không thân hành tới đây mượn về xem?
Cưu Ma Trí thở dài não ruột, thay đổi sắc mặt, lặng yên hồi lâu rồi lại nói:
-Mộ Dung tiên sinh thực ra đã biết cuốn kinh này là vật chí bảo để chấn chùa,dù có đến mượn chắc cũng không được. Người còn nói rằng họ Ðoàn nước Ðại Lý tuy ngôi chúa tể một nước mà không quên nghĩa khí thuở còn là khách giang hồ, có lòng thương dân, gia ơn cho khắp cả trăm họ, tiên sinh không tiện đến lấy trộm hay cưỡng đoạt.
Thiên Nhân tạ rằng:
-Ða tạ thịnh tình Mộ Dung tiên sinh quá khen. Mộ Dung đã để họ Ðoàn nước Ðại Lý tôi lọt vào mắt xanh, Minh Vương lại là tri kỷ với tiên sinh tưởng cũng nên nghĩ tới ý chí tiên sinh còn để lại.
Cưu Ma Trí nói:
-Chỉ vì hồi đó tiểu tăng đã trót khoe với tiên sinh rằng tiểu tăng là quốc sư nước Thổ Phồn, đối với họ Ðoàn nước Ðại Lý chưa từng quen biết, nếu tiên sinh không tiện thân hành đến lấy thì để tiểu tăng lấy cho. Tiểu răng nghĩ rằng bậc đại trượng phu đã nói một lời dù sống chết cũng không thay đổi. Tiểu tăng đã hứa nhất quyết không dám sai lời.
Dứt lời lão khẽ vỗ tay ba cái, hai hán tử khiêng một cái rương bằng gỗ đàn hương vào, đặt dưới đất. Cưu Ma Trí phất tay áo một cái, nắp rương tự nhiên mở ra, bên trong có một cái hộp bằng vàng. Cưu Ma Trí cúi xuống, lấy hộp lên cầm
tay.
Thiên Nhân nghĩ thầm: bọn ta đã là người thoát vòng tục luỵ còn tham lam làm chi những đồ kỳ trân, dị bảo. Hơn nữa họ Ðoàn làm Vua một nước dư trăm rưởi năm nay, súc tích thiếu gì kim ngân châu báu.
Nhưng Cưu Ma Trí mở nắp hộp ra chỉ có ba quyển sách cũ. Lão tiện tay mở ra.
Thiên Nhân liếc mắt trông qua thấy trong sách có hình vẽ và có chữ nghĩa đều do tay người viết và họa bằng mực, bằng son. Cưu Ma Trí nhìn ba cuốn sách thốt nhiên rớt nước mắt ướt cả tràng áo, nét mặt sầu thảm vô cùng.
Bọn Thiên Nhân đều lấy làm lạ.
Khô Vinh đại sư nói:
-Minh Vương lúc nào cũng nghĩ đến người bạn thuở xưa, trần duyên chưa sạch,há không thẹn với hai chữ "cao tăng" ư?
Ðại Luân Minh Vương cúi đầu nói:
-Ðại sư là bậc đại trí tuệ, đại thần thông tiểu tăng bì thế nào được? Ba quyển võ công quyết yếu này do chính tay Mộ Dung tiên sinh soạn ra, diễn thuật những điều chính yếu trong 72 môn tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm, có cả phép luyện, phép phá nữa.
Mọi người nghe nói cả kinh nghĩ thầm: "72 môn tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm lẫy lừng khắp thiên hạ. Người ta đồn rằng từ khi phái Thiếu Lâm sáng lập, ngoại trừ một vị cao tăng về đời Tống kiêm được 56 môn còn chưa có người thứ hai nào
luyện tới 36 môn. Thế mà bảo Mộ Dung tiên sinh quán được cả 72 môn đã khó tin rồi, huống hồ lại biết cả cách phá giải nữa thì không ai dám nghĩ đến.
Cưu Ma Trí tiếp:
-Mộ Dung tiên sinh tặng ba cuốn kỳ thư này cho tiểu tăng, tiểu tăng nghiên cứu nhiều điều rất bổ ích. Nay xin đưa sang đây đổi lấy cuốn Lục mạch thần kiếm kinh. Các vị đại sư có thể tất cho thì tiểu tăng mới vẹn được lời ước hẹn năm xưa
và lòng cảm kích nói sao cho xiết?
Thiên Nhân phương trượng không nói gì nghĩ thầm: "nếu quả nhiên ba cuốn sách này ghi chép đầy đủ 72 môn tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm thì chùa Thiên Long này sau khi học được ba cuốn đó võ công không chỉ ngang hàng với phái Thiếu
Lâm mà thôi lại còn có phần cao hơn một bậc vì bao nhiêu môn sở trường của Thiếu Lâm mình đã biết hết mà phái Thiếu Lâm chưa biết gì về những môn tuyệt kỹ của chùa này.
Cưu Ma Trí nói:
-Khi quý tự ban cho cuốn Bảo kinh đó vẫn để bản sao lại không thiệt hại gì mà tiểu tăng được các đại sư gia ơn cho tất phải khắc xương để dạ. Ðó là một điều lợi.
Tiểu tăng bái lãnh bảo kinh xin niêm phong lại lập tức, quyết không xem trộm,thân hành đưa đến phần hoá ngay trước mồ Mộ Dung tiên sinh. Tuyệt kỹ của quý tự không tiết lộ cho ai biết cả, đó là hai điều lợi. Các vị đại sư ở quý tự đây võ học uyên thâm, không cần đi đâu mà nơi khác đem đá đến cho có thể mài giũa nên ngọc quý. 72 môn tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm có nhiều bí quyết độc đáo, tỷ như phép "niêm hoa chỉ", "vô tướng kiếp chỉ", "Ða la diệp chỉ". Ba chỉ pháp này cùng phép Nhất Dương Chỉ của quý tự đây có thể bồi bổ cho nhau. Ðó là ba điều lợi.
Cưu Ma Trí nói thao thao một hồi nghe rất hợp tình hợp lý.
Bảo Ðịnh Ðế cùng Ðoàn Dự lúc đầu xem bức thư vàng lời lẽ có vẻ ép buộc chùa Thiên Long để lấy bảo kinh một cách vô lý nhưng bây giờ nghe Cưu Ma Trí trình bày như vậy tựa hồ chùa Thiên Long được lợi rất nhiều mà không thua thiệt gì. Hơn nữa lão làm như thân hành kính dâng hậu lễ vậy. Thiên Tướng đại sư là người hiền hoà dễ dãi nhất,bổn tính ưa giúp được việc cho người trong tâm có ý ưng thuận. Song nói về tôn ti thì trên còn có sư thúc về địa vị phải nhường phương trượng nên không dám nói ra.
Cưu Ma Trí tiếp:
-Tiểu tăng hãy còn ít tuổi và kiến thức hẹp hòi, lời nói chưa đủ thủ tín cùng các vị đại sư vậy xin đem ba môn chỉ pháp cùng nằm trong 72 môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm ra phô trương trước mặt quý vị, chẳng quản múa rìu qua mắt thợ.
Lão liền đứng dậy rào đón:
-Ðây chỉ là nhân lúc tiểu tăng cao hứng, công phu luyện tập thô sơ nên còn nhiều chỗ kém cỏi, xin quý vị chỉ điểm cho. Tiểu tăng xin bắt đầu bằng môn "niêm hoa chỉ".
Nói xong lão đưa ngón cái và ngón trỏ bên tay phải ra, nhẹ nhàng để gần vào nhau, tựa hồ đang cầm một đoá hoa tươi. Nét mặt mỉm cười lão lại đưa những ngón tay trái ra búng.
Trong mầu ni đường trừ Ðoàn Dự ra, còn toàn là những tay nghiên cứu chỉ pháp đến mức tinh vi, vừa thấy lối chỉ pháp của Cưu Ma Trí cực kỳ nhẹ nhàng êm dịu. Mỗi lần tay trái búng ra tựa hồ gảy những hạt sương đọng trên hoa đi, lại tỏ vẻ không dám đụng mạnh, sợ cánh hoa rụng xuống. Miệng vẫn ung dung mỉm cười. Nguyên kinh Phật có chép rằng: Ðức Thích ca mầu ni thuyết pháp trên núi Linh Sơn, tay cầm bông hoa Ba la sắc vàng, mọi người nghe không ai nói gì,
chỉ có Gia Diệp phá lên cười, Ðức Thích Ca biết ngay Gia Diệp đã lĩnh hội tâm pháp của mình liền nói:
-Ta có các môn "chính nhãn pháp tàng", "nát bàn pháp môn", "thục tướng vô tướng", "vi diệu pháp môn" không chép vào sách để ta truyền cho Gia Diệp.
Tâm truyền là một điều trọng đại của Thuyền Tông. Phái Thiếu Lâm lại ở trong phạm vi Thuyền Tông nên môn "niêm hoa chỉ" này được nghiên cứu rất tinh vi.
Lúc Cưu Ma Trí búng ngón tay chưa thấy gì kỳ lạ. Lão búng liền một lúc mấy chục cái rồi giơ tay áo lên thổi thì thấy những mảnh vải tròn, chỉ lớn bằng những con cờ bay phất phới, tay áo lộ ra đến mấy chục chỗ thủng. Thì ra lúc lão búng ngón tay lão đã dùng "niêm hoa chỉ" điểm vào tay áo cho thủng rồi. Nhưng trước chưa trông thấy gì, tay áo tựa như vẫn nguyên lành lúc thổi vào những mảnh áo mới bay tung ra.
Bọn Thiên Nhân, Thiên Quan, Bảo Ðịnh Ðế thấy vậy đều lấy làm kinh dị nghĩ thầm: "kể ra thì bọn mình mang Nhất Dương Chỉ điểm cho thủng áo cũng được,chẳng có gì là khó. Song đưa ngón tay ra một cách mềm mại, nét mặt vẫn vui vẻ tươi cười mà vận động nội lực mạnh đến thế thì mình không làm được. Rút lại môn Nhất Dương Chỉ cùng môn "niêm hoa chỉ" hoàn toàn khác biệt ở chỗ phát ra kình lực theo cách âm nhu mà môn Nhất Dương Chỉ lại theo phép dương cương.
Cưu Ma Trí tươi cười nói:
-Tiểu tăng đã phô bày môn "niêm hoa chỉ" một cách vụng về, còn kém Huyền Ðộ đại sư chùa Thiếu Lâm xa lắm. Ðến môn "Ða la diệp chỉ" tiểu tăng sắp trình bày đây, chắc lại còn sai lạc hơn nữa.
Dứt lời Cưu Ma Trí đủng đỉnh đi vòng quanh cái rương gỗ đặt dưới đất, mười đầu ngón tay điểm ra trông tựa như lá rụng hoa bay rồi những miếng rương gỗ tung lên không ngớt. Chớp mắt những mãnh gỗ đó đã nát vụn, rơi xuống thành một đống mùn cưa.
Bảo Ðịnh Ðế cùng các nhà sư coi việc làm cho cái rương gỗ vụn ra chẳng có chi kỳ dị nhưng cả những đai sắt, bản lề đồng mà chỉ lực cũng đánh gãy nát được thì không khỏi kinh hãi.
Cưu Ma Trí cười nói:
-Tiểu tăng sử dụng môn "Ða la diệp chỉ" này cũng là miễn cưỡng, công phu luyện tập hãy còn thiển cạn.
Lão vừa nói vừa thủ tay vào trong áo thế mà thốt nhiên đống gỗ nát vụn tự nhiên bay lên loạn xạ, tựa hồ có cây vô hình khuấy lên vậy. Nét mặt Cưu Ma Trí vẫn ôn hoà tươi cười, cái áo thầy chùa rộng thùng thình vẫn không lay động mảy may.
Thần tình ở chỗ chỉ lực bên trong tay áo phóng ngầm ra, tuyệt không lộ hình tích chút nào.
Thiên Tướng không nhịn được bất giác trầm trồ:
-Môn "vô tướng kiếp chỉ" hay quá! Quả nhiên danh bất hư truyền! Bần tăng xin bội phục!
Cưu Ma Trí lễ phép nói:
-Ðại sư quá khen đấy chứ! Ðống gỗ nát vụn lên còn là hữu tướng. Luyện được đến chỗ vô hình, vô tướng thì phải hết đời.
Thiên Tướng đại sư hỏi:
-Trong cuốn kỳ thư của Mộ Dung tiên sinh để lại có nói đến phép phá môn "vô tướng kiếp chỉ" không?
Cưu Ma Trí đáp:
-Có có! Phép phá "vô tướng kiếp chỉ" cũng có tên giống như pháp danh của đại sư.
Thiên Tương trầm ngâm hồi lâu rồi tiếp:
-Ừ phải! Ðem thiên tướng để phá vô tướng thật là cao tuyệt.
Ba nhà sư Thiên Nhân, Thiên Quan, Thiên Tham nhìn Cưu Ma Trí diễn xong ba môn chỉ lực đã thấy chột dạ, biết rằng ba cuốn kỳ thư đúng là chép 72 môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm đã có ý muốn đem bản sao các đồ hình về Lục mạch thần kiếm đánh đổi nhưng còn trù trừ chưa dám nói ra.
Thiên Nhân nói:
-Bạch sư thúc! Minh Vương từ xa tới đây với tầm lòng thành thực! ý kiến sư thúc thế nào chỉ thị cho!
Khô Vinh đại sư hỏi:
-Thiên Nhân! Chúng ta luyện công tập nghị để làm gì?
Thiên Nhân phương trượng nghe sư thúc hỏi vặn không khỏi ngạc nhiên đáp:
-Cốt để mở rộng phép mầu, bảo vệ quốc gia.
Khô Vinh lại hỏi:
-Khi gặp hạng quỷ quái ở đâu đến, đạo pháp mình hãy còn thiển cận không đủ điểm hoá được chúng cần phải tru diệt cho yên thì dùng cách gì?
Thiên Nhân đáp:
-Nếu bất đắc dĩ phải ra tay, sẽ dùng Nhất Dương Chỉ.
Khô Vinh đại sư hỏi:
-Ngươi luyện Nhất Dương Chỉ đã đến bậc nào?
Thiên Nhân toát mồ hôi trán đáp:
-Ðệ tử ngu muội lại thiếu chuyên cần nên mới luyện đến bậc thứ năm.
Khô Vinh đại sư lại hỏi:
-Theo ý kiến ngươi thì môn Nhất Dương Chỉ của họ Ðoàn nước Ðại Lý so với các môn "niêm hoa chỉ", "Ða la diệp chỉ", "Vô tướng kiếp chỉ" của phái Thiếu Lâm ai hơn ai kém?
Thiên Nhân đáp:
-Về chỉ pháp không có hơn kém, chỉ có công phu rèn luyện là có kẻ cao người thấp mà thôi.
Khô Vinh đại sư nói:
-Ðúng đó. Giả tỷ mà môn Nhất Dương Chỉ của chúng ta luyện được đến chỗ tuyệt đỉnh thì sẽ ra sao?
Thiên Nhân đáp:
-Phép mầu uyên thâm như biển cả khôn lường. Ðệ tử đâu dám nói càn?
Khô Vinh hỏi:
-Tỷ dụ như ngươi thọ đến trăm tuổi, sẽ luyện được tới bậc nào?
Mồ hôi trán nhỏ giọt, Thiên Nhân đáp:
-Ðệ tử cũng không biết nữa.
Khô Vinh hỏi:
-Liệu có luyện được đến chỗ tuyệt đỉnh không?
Thiên Nhân đáp:
-Quyết không thể được.
Thấy Khô Vinh không nói gì nữa Thiên Nhân tiếp:
-Lời sư thúc dạy chí phải. Môn Nhất Dương Chỉ của mình còn chưa luyện được đến nơi đến chốn thì nói chi đến kỳ kinh võ học của ai nữa? Minh Vương lặn lội cực nhọc đến đây tệ tự xin thết tiệc chay tẩy trần.
Vừa nghe lời cự tuyệt Ðại Luân Minh Vương thở dài sườn sượt nói:
-Chỉ vì tiểu tăng trót lỡ miệng một câu không thì nay Mộ Dung tiên sinh đã qua đời, việc cầu kinh Lục mạch thần kiếm có được hay không cũng chẳng quan hệ gì.
Hôm nay tiểu tăng hỏi câu này khí vô lễ:
-Môn Lục mạch thần kiếm quả có tinh diệu đến như lời Mộ Dung tiên sinh thì e rằng quý tự đây không ai luyện nổi. Giả tỷ có người luyện thành rồi thì chắc nó chả tinh diệu như Mộ Dung tiên sinh đã tưởng tượng.
Khô Vinh nói:
-Lão tăng cũng có một nghi vấn mong Minh Vương chỉ giáo.
Cưu Ma Trí nói:
-Không dám!
Khô Vinh đại sư hỏi:
-Bản tự có pho kinh Lục mạch thần kiếm, chính con cháu họ Ðoàn còn ở trong vòng tục luỵ cũng không thể biết, không hiểu Mộ Dung tiên sinh đã nghe ai mách?
Cưu Ma Trí đáp:
-Mộ Dung tiên sinh không nói rõ. Song tiểu tăng đoán ra dường như tiên sinh có mối quan hệ với thái tử Diên Khánh họ Ðoàn.
Thiên Nhân gật gù hỏi:
-Thái tử Diên Khánh có biết Mộ Dung tiên sinh?
Cưu Ma Trí đáp:
-Mộ Dung tiên sinh có chỉ điểm cho thái tử bảy, tám thế võ nhưng không chịu thu nạp y làm đồ đệ.
Khô Vinh đại sư hỏi:
-Tại sao vậy?
Cưu Ma Trí đáp:
-Ðó là chuyện riêng của tiên sinh, tiểu tăng không tiện hỏi kỹ.
ý tứ câu nói của Cưu Ma Trí là xin Khô Vinh đừng hỏi nữa. Khô Vinh nói:
-Thái tử Diên Khánh là con em họ Ðoàn, chùa Thiên Long cùng trưởng tộc có trách nhiệm về hành động của y.
Cưu Ma Trí lạnh lùng đáp:
-Chính thế!
Thiên Nhân phương trượng nói:
-Trên mười năm trời sư thúc bần tăng không tiếp kiến ai. Chỉ có Minh Vương là bậc cao tăng hiện nay nên người mới phá lệ đó ra tiếp kiến chốc lát mà thôi. Nào xin mời Minh Vương.
Nói xong đứng dậy tỏ ý tiễn chân.
Cưu Ma Trí nói:
-Tôi tưởng kinh Lục mạch thần kiếm chỉ có hư danh, quý tự hà tất phải coi quan trọng như thế làm gì? để đến nỗi thương tổn đến hoà khí giữa Thiên Long tự và Ðại Luân tự, lại tổn thương cả đến mối bang giao giữa hai nước Ðại Lý cùng Thổ Phồn.
Thiên Nhân nói:
-Minh Vương muốn nói thế nào thì nói chúng tôi cũng không thuận giao kinh đâu. Chẳng lẽ vì thế mà Ðại Lý cùng Thổ Phồn sẽ xảy cuộc binh đao?
Bảo Ðịnh Ðế thường phái trọng binh đồn trú tại miền biên giới tây bắc để đề phòng nước Thổ Phồn đem quân vào xâm lấn giờ nghe Cưu Ma Trí nói vậy nhà Vua càng để ý theo dõi câu chuyện.
Cưu Ma Trí nói:
-Quốc Vương nước Thổ Phồn chúng tôi lâu nay vẫn hâm mộ nhân vật vùng phong thổ nước Ðại Lý, từng đòi mở cuộc săn bắn với Hoàng Thượng bên quý phái song tiểu tăng e rằng làm như vậy tổn thương nhân mạng quá nhiều, trái với đức hiếu sinh của Thượng Ðế nên tiểu tăng phải ráng sức ngăn cản mới thôi.
Bọn Thiên Nhân nghe qua đã biết lời lão có ngụ ý uy hiếp.
Cưu Ma Trí là quốc sư nước Thổ Phồn. Nước Thổ Phồn cũng như nước Ðại Lý, từ quốc vương trở xuống ai ai cùng sùng tín đạo Phật. Cưu Ma Trí được quốc vương Thổ Phồn rất tín nhiệm,hoà hay chiến phần lớn là do lão quyết định. Nếu vì một pho kinh mà để xảy ra chinh chiến, nhân dân hai nước phải lầm than thì khí quá. Nhưng nếu để người ngoài vào hăm doạ một câu đã phải hai tay mang bảo kinh đem dâng cho họ thì còn ra thể thống gì nữa?
Khô Vinh đại sư nói:
-Nếu Minh Vương cần pho kinh của tệ tự quá, không có không được thì bọn lão tăng đâu dám tiếc? Còn chuyện Minh Vương bảo đem pho sách có 72 môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm đánh đổi, tệ tự không dám bái lãnh. Lão tăng tuy đã mấy chục năm quay mặt vào vách song cũng biết những chuyện tuyệt kỹ chùa Ðại Luân hãy còn hơn 72 môn của phái Thiếu Lâm nhiều.
Cưu Ma Trí chắp tay hỏi:
-Theo ý đại sư, phải chăng đại sư muốn cho tiểu tăng phải lòi cái kém cỏi ra?
Khô Vinh đại sư nói:
-Minh Vương vừa bảo pho kinh Lục mạch thần kiếm của tệ tự chỉ có hư danh không được việc gì. Bọn lão tăng xin đem môn Lục mạch thần kiếm thỉnh giáo Minh Vương vài thế oanh liệt. Nếu quả đúng như lời Minh Vương: Lục mạch thần kiếm chỉ có hư danh không được việc gì thì chẳng có chi đáng quý thật, Minh Vương cứ việc lấy đi.
Cưu Ma Trí nghe Khô Vinh nói vậy không khỏi chột dạ. Trước lão cùng Mộ Dung tiên sinh đàm luận về môn "Lục mạch thần kiếm" đã biết kiếm pháp này cực cao, chỉ sợ sức người không luyện được đến nơi đến chốn. Bây giờ nghe miệng lưỡi Khô Vinh thì môn này không những ông ta biết sử dụng mà thôi, dường như chư tăng ở đây cũng đã rèn luyện. Chùa Thiên Long nổi danh hơn trăm năm nay mình không thể coi thường họ được. Vẻ mặt Cưu Ma Trí lúc này càng nghiêm cẩn hơn,lão nghiêng mình nói:
-Chư vị cao tăng cho biết tuyệt nghệ về môn thần kiếm này để tiểu tăng được mở rộng nhãn giới thì may mắn nào bằng?
Thiên Nhân phương trượng nói:
-Minh Vương dùng thứ khí giới gì? Xin lấy ra!
Cưu Ma Trí vỗ tay một cái, một gã hán tử cao lớn từ ngoài cửa bước vào. Sau khi nghe Cưu Ma Trí nói tiếng Phiên mấy câu gã gật đầu ra mở rương lấy một nắm hương đưa cho lão rồi lại ra ngoài cửa chờ.
Ai cũng lấy làm kỳ. Nắm hương kia đụng đến là gãy, chẳng lẽ lại dùng làm khí giới được ư? Bỗng thấy Cưu Ma Trí tay trái cầm một nén hương, tay phải quờ xuống đống gỗ rương gãy vụn bóp nhỏ ra để cắm hương. Lão tiếp tục làm như vậy,cắm đủ sáu nén hương bày hàng chữ nhất, nén nọ cách nén kia vào khoảng một xích.
Cưu Ma Trí ngồi xếp bằng sau những nén hương cách xa chừng năm xích.
Bỗng nhiên lão xát hai bàn tay vào đầu nén hương vài cái rồi buông ra. Ðầu nén hương cháy sáng lên, mọi người tưởng lão thắp hương bằng cách đó, ai nấy cả kinh ghê cho nội lực của lão đã đến mức không ai có thể tưởng tượng được.
Thiên Nhân phương trượng cùng Bảo Ðịnh Ðế thoảng ngửi thấy mùi lưu hoàng đoán biết là đầu sáu nén hương đều có hoả dược và không phải Cưu Ma Trí dùng nội lực để thắp nén hương mà dùng nội lực xát hoả dược cho đều nén hương bật cháy lên. Tuy nhiên làm được thế cũng gớm lắm rồi.
Phe Bảo Ðịnh Ðế không ai làm nổi.
Sáu nén hương cháy rồi sáu luồng hơi bốc thẳng lên như sáu sợi dây trắng.
Cưu Ma Trí vòng tay như kiểu ôm quả cầu tròn, vận động nội lực cho sáu ngọn khói hương quanh lại chỗ chư tăng. Sáu luồng khói hương lướt tới trước mặt sáu vị: Khô Vinh, Thiên Quan, Thiên Tướng, Thiên Nhân, Bảo Ðịnh Ðế và Thiên Tham mỗi vị một luồng riêng biệt. Sáu chưởng lúc này gọi là Hoả Diệm Ðao tuy bay lơ lửng trên không chẳng ai nắm được nhưng vô hình trung nó có thể giết người một cách ghê gớm.
Lúc này Cưu Ma Trí còn lưu tâm dè dặt vào việc mượn bảo kinh nên không có ý giết người. Lão dở trò này một là để diễu võ dương oai ra điều ta đây chỉ có uy hiếp người chứ không sợ ai, hai là để tỏ ra lão lấy đạo từ bi làm trọng, chỉ cần so sánh võ nghệ mà thôi.
Về Đầu Trang Go down
Oz Vessalius
Tướng Quân
Tướng Quân
Oz Vessalius

Tổng số bài gửi : 95
Điểm Thưởng : 5149
Độ Tin Tưởng : 104
Join date : 05/01/2011

Thiên Long Bát Bộ - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ   Thiên Long Bát Bộ - Page 2 I_icon_minitimeThu Jan 06, 2011 5:26 pm

Hồi 26

Ngàn Năm Một Thuở
Sáu đường bạch tuyến đó lại tới trước mặt bọn Thiên Nhân cách chừng ba thước tức khắc ngừng lại không chuyển động nữa. Mọi người thấy thế đều kinh dị. Vì dùng nội công để thúc đẩy luồng khói trắng đi là việc bình thường nhưng làm thế nào cho luồng hơi lờ lững, vô định ngưng đọng, đứng nguyên một chỗ trên không là một việc rất khó.
Thiên Tham đưa thẳng ngón tay út bên trái lên, tức thời một đường kiếm khí từ trong huyệt "thiếu xung" bắn ra, nhằm đâm vào luồng khói trắng ở trước mặt. Luồng khói trắng lập tức bị đẩy hất ngược trở lại với tốc độ rất mau nhằm vào người Cưu Ma Trí. Luồng khói còn cách lão chừng hai xích, lão phải tăng gia nội lực vào thế hoả diệm đao để chặn đứng.
Cưu Ma Trí gật đầu lẩm bẩm:
-Người ta bảo môn Lục mạch thần kiếm có thế "thiếu xung kiếm" quả nhiên không sai.
Hai bên dùng nội lực dằng co vài hiệp nữa, Thiên Tham đại sư nhận thấy nếu mình cứ ngồi lỳ một chỗ thì khó lòng phát huy được uy lực trong kiếm pháp, liền đứng dậy tiến lên ba bước, đi chênh chếch về phía bên trái. Luồng nội lực đó tức khắc từ phía bên trái tấn công chéo sang mé bên phải. Cưu Ma Trí liền đưa tay trái ra dùng chưởng lực để chặn đón. Thiên Quan chĩa thẳng ngón tay giữa lên để phóng "trung xung kiếm" đâm thẳng về phía trước.
Cưu Ma Trí la lên:
-Phải lắm! Quả có "trung xung kiếm pháp" thật.
Mình lão đánh với hai người mà chưa hề nao núng.
Ðoàn Dự ngồi trước mặt Khô Vinh đại sư, ghé cổ nghiêng đầu, chăm chú theo dõi cuộc đấu kiếm lớn lao, nghìn năm chưa có một lần trong võ lâm. Tuy chàng chưa hiểu võ nghệ, song chàng cũng hiểu rõ cuộc đấu kiếm bằng nội lực của mấy vị cao tăng đây đem so sánh với những cuộc đấu bằng gươm đao thực sự cầm trong tay còn nguy hiểm và khốc liệt hơn nhiều.
May nhờ có sáu nén hương của Cưu Ma Trí thắp lên, Ðoàn Dự mới căn cứ vào những luồng khói trắng phất phơ bay đi bay lại để nhận định những đường kiếm thế đao của ba người. Sau khi xem được tới mười mấy hiệp Ðoàn Dự chợt nghĩ ra lẩm bẩm:
-À đúng rồi! Trung xung kiếm pháp của Thiên Quan đại sư giống hệt nét vẽ trong đồ hình.
Ðoàn Dự khẽ mở đồ hình về "trung xung kiếm" xem lại và đối chiếu những luồng khói trắng đi quanh quẩn với những đường kiếm trong đồ phổ lập tức nhận ra ngay, không còn điểm nào nan giải cả.
Ðoàn Dự say sưa theo dõi cảm thấy hứng thú vô cùng. Khi xem đến Thiếu Trạch kiếm pháp của Thiên Tham cũng vậy,
chẳng qua mỗi kiếm pháp có một đặc sắc riêng. Trung xung kiếm thì phép phóng ra thu về phải rộng lớn, khí thế rất là hùng mạnh. Thiếu trạch kiếm thì đường qua lại vun vút, biến hoá thật tinh vi. Thiên Nhân phương trượng thấy cả hai sư huynh và sư đệ liên hiệp động thủ mà vẫn chưa chiếm được mảy may ưu thế, trong bụng thầm nghĩ: "về kiếm pháp bọn ta luyện chưa được thuần thục, đường kiếm không đánh được lâu. Cần phải dùng chiến thuật đánh mau và đánh mạnh. Vậy sáu người phải sớm đồng thời xuất thủ là hơn. Ðại Luân Minh Vương là tay thông minh tuyệt đỉnh, lão vẫn để ý xem kiếm pháp của Thiên Quan và Thiên Tham chứ chưa đưa toàn lực ra công thủ. Thiên Nhân nghĩ vậy liền hô:
-Hai sự đệ Thiên Tướng và Thiên Trần! Chúng ta nhất tề động thủ.
Vừa dứt tiếng Thiên Nhân đã phóng ngón tay trỏ để phát huy "thương dương kiếm", theo liền với "thiếu xung kiếm" của Thiên Tướng và "quan xung kiếm" của Bảo Ðịnh Ðế.
Ba đường kiếm khí đồng thời nhằm đánh vào ba đường khói trắng.
Ðoàn Dự bắt đầu nhìn "thiếu xung kiếm" rồi đến "quan xung kiếm", "thương dương kiếm" cùng một lúc. Chàng nhận thấy cả mấy thế kiếm đem đối chiếu với quyển đồ hình tuy cũng hiểu được nhưng thấy rối loạn, không ra mạch lạc nào nên không nhớ được.
Ðoàn Dự đang chú ý nhìn nhận về "thiếu xung kiếm" trên đồ hình chợt thấy một ngón tay gầy đét thò ra viết lên trên quyển đồ hoạ: "học riêng biệt từng thế kiếm một", thuộc rồi sẽ học sang thế khác!". Chàng hiểu ngay là Khô Vinh đại sư chỉ điểm cho mình biết cách học liền quay đầu lại, mỉm cười tỏ ý tạ ơn.
Không ngờ Ðoàn Dự vừa nhìn lên, chàng bỗng cả kinh thất sắc vì khuôn mặt Khô Vinh đặc biệt kỳ dị: nửa mặt bên trái hồng hào tươi nhuận, da thịt đầy đặn mũi mĩm như đứa trẻ nít, còn nửa mặt bên phải thì ngược lại: chỉ có làn da vàng héo bọc ngoài xương, những đầu xương gồ lên, trông như nửa cái đầu lâu người chết.
Ðoàn Dự sợ quá trông ngực đánh hơn trống làng, không dám nhìn lâu và cũng không dám nghĩ tới, mặc dầu chàng biết rõ đó là kết quả của công phu luyện "khô thuyền" mà nhà sư đã đạt được. Cái khuôn mặt nửa tươi, nửa héo trông rất khó coi và đáng sợ, khiến ai đã nhìn thấy cũng không thể bình tĩnh được.
Khô Vinh đại sư lại đưa ngón tay viết thêm: "Dịp may đừng bỏ lỡ, chú ý xem kiếm pháp".
Ðoàn Dự gật đầu chú ý xem "quan xung kiếm pháp" của bá phụ rồi lại lần lượt xem đến hai kiếm pháp "thiếu xung" và "thương dương". Trong năm ngón tay của con người thì ngón vô danh vụng về nhất và ngón trỏ là nhanh nhẹn hơn. Vì thế nên kiếm pháp "quan xung" thủ thắng ở điểm vụng về chất phác mà kiếm pháp "thương dương" thủ thắng ở điểm xảo diệu, linh hoạt, biến hoá khôn lường. Hai kiếm pháp "thiếu xung" và "thiếu trạch" đều phóng ra bằng ngón tay út, song một bên tay phải, một bên tay trái nên kiếm pháp cũng khác nhau ở chỗ khéo hoặc vụng, mau hay chậm.
Tuy nhiên vụng mà vẫn được việc, chậm mà không giảm uy lực chỉ cần phân biệt ở phương pháp sử dụng: đánh bất ngờ hay đánh thẳng thắn mà thôi.
Ðoàn Dự lúc đầu chỉ là do tính hiếu kỳ thúc đẩy, nhìn đường khói trắng bay đi bay lại, đem đối chiếu với những đường vẽ trong đồ hình, chẳng qua cũng coi như một trò chơi đánh đố,mỗi lần đường kiếm diễn biến là một lần suy nghĩ cho ra. Nhưng từ lúc được nghe lời chỉ điểm "dịp may đừng bỏ lỡ" của Khô Vinh, Ðoàn Dự mới chuyên tâm, nhất trí nhận xét.
Ðoàn Dự vừa học xong được ba thế kiếm thì Thiên Tham và Thiên Quan lại sử dụng kiếm pháp đến lần thứ hai. Lần này Ðoàn Dự không cần xem đồ hình nữa, chỉ để mắt nhìn đương khói trắng và đem những đường kiếm đã thuộc
lòng ra đối chứng. Chàng nhận ra rằng những nét vẽ trong đồ hình chỉ là những đường chết mà những đường khói trắng đi đi lại lại một cách linh động, biến hoá vô cùng, có phần phong phú phiền phức hơn nhiều.
Ðoàn Dự theo dõi một hồi thì Thiên Nhân, Thiên Tướng và Bảo Ðịnh Ðế lại sử dụng xong một lượt kiếm pháp nữa. Thiên Tướng bật ngón tay út một cái, sử dụng đường kiếm lần thứ hai theo thế "phân hoa phất liễu". Ðoạn tiếp đến Thiên Nhân và Bảo Ðịnh Ðế cũng sử dụng lại hai kiếm pháp vừa đánh xong.
Cưu Ma Trí khẽ gật đầu rồi đột nhiên những tiếng "vu vu" phát ra, huy thế hoả diệm đao mạnh lên gấp bội, đẩy lui tất cả nội lực kiếm khí của năm người trở lại.
Lúc đầu Cưu Ma Trí chỉ giữ thế thủ, cốt để xem xét đủ các thế đánh trong Lục mạch thần kiếm rồi mới phản kích. Ðang thế thủ đổi sang thế công, năm luồng khói trắng bay lượn tung hoành, linh hoạt vô song, còn luồng thứ sáu vẫn ngưng lại ở phía sau Khô Vinh đại sư cách chừng ba bốn thước, đứng im tăm tắp, không chuyển động chút nào.
Khô Vinh đại sư để ý nhận xét cho thấu triệt tình hình địch thủ, xem Cưu Ma Trí duy trì tình trạng "năm ngả công một ngả đừng" này được đến bao giờ. Quả nhiên Cưu Ma Trí không kéo dài tình trạng đó được nữa vì muốn giữ cho luồng khói trắng thứ sáu đứng yên một chỗ như thế hao tốn rất nhiều sức lực. Lão phải di động cho nó tiến dần từng bước một, thẳng đến sau gáy Khô Vinh đại sư.
Ðoàn Dự hốt hoảng la lên:
-Ðại sư phụ ơi! Ðường khói trắng của địch đã tập công tới nơi !
Khô Vinh gật đầu và mở tới chỗ "thiếu thương kiếm" trong quyển đồ hoạ đưa cho Ðoàn Dự xem.
Ðoàn Dự thâm cảm mỹ ý của Khô Vinh, để hết tinh thần vào nhận xét đồ hình,thấy kiếm pháp "thiếu thương" này giống như một bức tranh thuỷ mạc, tuy chỉ dọc ngang xiên chếch sơ sài nhưng sức đánh mãnh liệt như phong ba bão táp, đá lở trời long.
Ðoàn Dự tuy mắt xem kiếm phổ nhưng vẫn để ý tới luồng khói trắng tiến lại sau gáy Khô Vinh. Chàng vừa quay đầu lại thấy luồng khói trắng chỉ còn cách độ ba bốn tấc là tới nơi, hoảng hốt kêu:
-Ðại sư phụ! Hãy coi chừng!
Khô Vinh đại sư đưa tay về đằng sau đồng thời búng mạnh hai ngón tay cái, tức thời hai luồng kiếm khí vù vù phát ra nhằm đánh vào hai điểm trước ngực bên phải và vai bên trái Cưu Ma Trí.
Khô Vinh đại sư không cần chống đỡ thế công của đối phương mà lại phóng ra hai đạo "kỳ binh" đánh gấp vào địch thủ, vì đại sư tin chắc là Cưu Ma Trí kìm hãm nội lực "hoả diệm đao" cho tiến một cách từ từ thì dù có đả thương được mình cũng còn phải mất giây lát nữa, nếu mình dùng lối đánh "hậu phát, tiên đáo" thì đối phương không kịp trở tay.
Cưu Ma Trí cũng không phải tay vừa, liệu lượng rất chu đáo, đã dự bị sẵn một đường chưởng lực phòng hờ trước ngực để kịp thời ứng phó với miếng đánh hiểm độc bất thần của đối phương. Tuy nhiên lão mới nghĩ tới một thế công ác liệt của "thiếu dương kiếm" thôi chứ chưa nghĩ tới Khô Vinh lại đồng thời xuất phát luôn hai đường kiếm khí đánh vào hai chỗ khác nhau.
Cưu Ma Trí giơ tay phát động đường chưởng lực đã phục sẵn để chống đỡ với một đường kiếm khí của đối phương đâm vào trước ngực bên phải và tiếp liền nhún chân bên phải vội lùi lại phía sau. Song dù lão có mau lẹ mấy chăng nữa vẫn không lẹ bằng kiếm khí.
Bỗng nghe "xoẹt" một tiếng nhe nhẹ, vai áo thầy tu của Cưu Ma Trí đã bị rách một miếng và máu tươi ròng ròng chảy ra.
Hai ngón tay Khô Vinh quay tròn một vòng,kiếm khí rút trở lại, sáu nén hương của Cưu Ma Trí đều bị đứt tày giữa quãng.
Bọn Thiên Nhân, Bảo Ðịnh Ðế đều thu kiếm khí về ngừng chiến. Trong tay ai nấy đều đẫm mồ hôi và đến bây giờ họ mới yên lòng.
Cưu Ma Trí rảo bước tiến vào trong nhà nói:
-Thiền Công của Khô Vinh đại sư thật là siêu việt, tiểu tăng đây rất lấy làm bội phục. Còn về Lục mạch thần kiếm nguyên chỉ có hư danh mà thôi.
Thiên Nhân phương trượng hỏi:
-Thế nào Minh Vương lại bảo là chỉ có hư danh? Bần tăng cần phải lãnh giáo mới được.
Cưu Ma Trí đáp:
-Năm xưa Mộ Dung tiên sinh ngưỡng mộ Lục mạch thần kiếm là ngưỡng mộ về kiếm pháp chứ không phải ngưỡng mộ về kiếm trận. Một toà kiếm trận này của Thiên Long tự, cố nhiên là uy lực lớn lắm. Song xét cho cùng chỉ ngang hàng với "La hán kiếm trận" của phái Thiếu Lâm, hoặc "hỗn độn kiếm trận" của phái Côn Luân mà thôi, dường như chưa phải là một kiếm pháp vô song.
Cưu Ma Trí nói kiếm trận chứ không phải là kiếm pháp là có ngụ ý chỉ trách đối phương về điểm sáu người nhất tề tham chiến, bày thành thế trận chứ đâu phải một người sử dụng cả Lục mạch thần kiếm như một mình lão sử dụng "hoả diệm đao".
Thiên Nhân thấy Cưu Ma Trí nói có lý chưa tìm được câu trả lời thì Thiên Tham đã cười lạt, hỏi lại:
-Bất luận kiếm pháp hay kiếm trận gì gì đi nữa nhưng cuộc tỷ đao luận kiếm vừa đây thì Minh Vương được hay chùa Thiên Long chúng tôi được?
Cưu Ma Trí không trả lời, nhắm mắt trầm tư một lát chừng uống cạn chén trà rồi mở to mắt ra đáp:
-Trận đấu thứ nhất thì quý tự hơi chiếm được ưu thế nhưng trận đấu thứ hai đây thì tiểu tăng sẽ nắm chắc phần thắng.
Thiên Nhân kinh ngạc hỏi:
-Minh Vương lại muốn liều một trận thứ hai nữa ư?
Cưu Ma Trí đáp:
-Ðại trượng phu đã nói thì phải giữ lời, tôi đã hứa với Mộ Dung tiên sinh đâu có thể ngại khó mà rút lui được?
Thiên Nhân hỏi tiếp:
-Nhưng sao Minh Vương biết đã nắm chắc phần thắng?
Cưu Ma Trí hơi nhếch mép cười đáp:
-Các vị đều là những bậc đại sư võ học uyên thâm, chẳng lẽ lại không suy đoán ra hay sao? Xin hãy tiếp chiến đã!
Nói dứt lời hai bàn tay lão từ từ đẩy ra phía ngoài. Bên Khô Vinh, Thiên Nhân,Bảo Ðịnh Ðế sáu người đều cảm thấy hai luồng kình lực phân tách ra và tập trung vào nhiều chỗ khác nhau. Bọn Thiên Nhân đều nhận thấy không thể dùng kiếm pháp "Lục mạch thần kiếm" mà chống đỡ kịp nên ai cũng đánh luôn hai chưởng một lúc để chống với hai luồng chưởng lực của đối phương. Riêng Khô Vinh đại sư vẫn dùng hai ngón tay cái búng mạnh ra, dùng thiếu dương kiếm để tiếp chiến với nội lực của địch thủ.
Cưu Ma Trí sau khi đẩy hai luồng chưởng lực ra lại thu về ngay nói:
-Xin lỗi!
Thiên Nhân, Bảo Ðịnh Ðế và đồng bọn đưa mắt nhìn nhau và cũng hiểu ngầm rằng chưởng lực của đối phương có thể chia tách ra làm mấy đường cùng một lúc.
Thiếu dương song kiếm của Khô Vinh sư thúc nếu có chia ra hai đường đánh ập lại, lão vẫn đủ sức chống đỡ. Chúng ta cần phải bỏ kiếm dùng chưởng, vì Lục mạch thần kiếm hiển nhiên thấy không kịp "hoả diệm đao" của lão rồi. Giữa lúc
mọi người đương suy tính, chợt thấy trước mặt Khô Vinh đại sư khói bốc lên ngùn ngụt, một luồng khói đen tách ra làm bốn nhằm bay về phía Cưu Ma Trí tập công.
Từ lúc vào đến giờ Cưu Ma Trí vẫn thấy lão hoà thượng ngồi quay mặt vào vách, không lúc nào ngoảnh mặt ra, trong bụng lão lúc nào cũng nơm nớp e ngại.
Bây giờ thốt nhiên thấy những luồng khói đen tấn công, không hiểu đối phương dụng ý ra sao. Lão vẫn dùng hoả diệm đao chia ra làm bốn đường chống đỡ.
Cưu Ma Trí hiện giờ chỉ giữ thế thủ, chứ chưa thể khởi công, một mặt phòng bị bọn Thiên Nhân đánh ập tới, một mặt cần bình tĩnh để coi tình hình biến chuyển, xem Khô Vinh còn có đòn gì ác hại hơn đánh tiếp chăng? thấy luồng khói đen mỗi lúc một dày đặc, thế công rất là lợi hại Cưu Ma Trí rất đỗi ngạc nhiên, tự hỏi: người ta đã có câu: "Mưa không qua ngọ, gió không qua mùi". Không hiểu đối phương sao lại dùng toàn lực ra đánh thì phỏng được mấy hơi?
Khô Vinh là một vị cao tăng như thế lẽ nào không nghĩ đến? Y dùng thủ đoạn hấp tấp cứng rắn như thế để ứng địch tất phải có quỷ kế gì đây. Vì nghĩ thế nên Cưu Ma Trí chỉ giữ môn hộ vững vàng để tâm linh sáng suốt nhận định tình thế và tuỳ cơ ứng biến.
Chừng uống cạn tuần trà, thì bốn luồng khói đen đó đột nhiên mỗi luồng chia ra làm hai, hai lại chia ra bốn, cộng lại tất cả thành mười sáu luồng vây bọc bốn bên tám mặt, tiến ập vào đánh Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí vẫn bình tĩnh cho là cung mạnh đã đến cuối tầm, không còn gì đáng kể nữa. Lão liền sử dụng hoả diệm đao và cũng chia ra thành nhiều đạo để ngăn chặn các lực đạo của đối phương. Hai lực đạo vừa chạm nhau thì 16 tia khói đen của Khô Vinh thốt nhiên tản ra bốn phía,chỉ trong tích tắc hơi khói toả ra mờ mịt khắp trong nhà.
Cưu Ma Trí vẫn điềm nhiên không hề nao núng, phát động chân lực tới mức độ cực mạnh, phòng giữ khắp toàn thân. Ðược một lát lớp khói lạt dần. Trong lớp khói lạt lờ mờ thấy bọn Thiên Nhân cả thảy năm hoà thượng đều quỳ dưới đất coi vẻ rất trang nghiêm. Ðặc biệt là Thiên Quan và Thiên Tham, hai mắt đầy vẻ bi phẫn.
Cưu Ma Trí không khỏi ngạc nhiên trước tình thế ly kỳ, song chỉ thoáng một cái là lão hiểu ngay và nói thầm một mình: "Hỏng rồi! Khô Vinh biết rõ không chống cự nổi nên đem quyển đồ hoạ Lục mạch thần kiếm đốt đi". Khô Vinh đại sư không muốn để Lục mạch thần kiếm lọt vào tay Cưu Ma Trí nên một mặt dùng nội lực Nhất Dương Chỉ đốt cháy hết cho thật mau mọi trang trong quyển đồ hoạ, một mặt thúc đẩy những luồng khói đen đến tập kích cho lão phải ra sức chống đỡ. Tới khi khói lạt thì sách đã cháy hết rồi.
Bọn Thiên Nhân đều là những bậc cao thủ nghiên cứu về Nhất
Dương Chỉ nên vừa nhìn thấy luồng khói đen đã hiểu rõ nguyên do nghĩ bụng:
"đây là sư thúc đã quyết tâm cam bề ngọc nát còn hơn yên phận ngói lành nên đã đem bảo vật trấn tự huỷ đi chứ nhất định không chịu để lọt vào tay kẻ địch".
Thế là từ đây đã gây nên mối thâm cừu giữa Thiên Long tự cùng Ðại Luân Minh Vương, khó mà gỡ ra được nữa.
Cưu Ma Trí vừa kinh ngạc vừa phẫn nộ, lão vốn tự phụ là người có mưu trí mà hôm nay hai lần liên tiếp bị bại dưới tay Khô Vinh đại sư. Quyển đồ hình Lục mạch thần kiếm đã bị thiêu huỷ hoàn toàn. Thế là chuyến đi này chẳng những
không thu hoạch được chút gì còn kết thêm mối thâm cừu. Cưu Ma Trí đứng dậy,chắp tay nói:
-Khô Vinh đại sư hà tất phải nóng tính như thế? Thà rằng gẫy nát không chịu cong queo kể cũng cao thượng đấy. Vì tiểu tăng mà đại sư huỷ mất bảo kinh của quý tự, trong lòng tiểu tăng có điều áy náy. Nhưng xét cho cùng quyển kinh này không phải sức một người nào luyện được, thế thì huỷ đi hay không cũng thế mà thôi. Tiểu tăng xin cáo biệt.
Cưu Ma Trí xoay người đi một chút, không đợi Thiên Nhân và Khô Vinh trả lời,bất thình lình đưa tay ra nắm chặt mạch đạo ở cổ tay phải Bảo Ðịnh Ðế rồi nói tiếp:
-Quốc vương tôi lâu nay vẫn ngưỡng mộ phong độ hoàng đế, ao ước được gặp một lần, xin mời bệ hạ khuất giá tới Thổ Phồn để quốc vương tôi được dịp thừa tiếp.
Sự biến diễn bất ngờ, mọi người đều giật mình. Cưu Ma Trí hành động một cách quá đột ngột. Bảo Ðịnh Ðế dù là bậc võ công cao cường nhưng không kịp phòng bị, hơn nữa thủ pháp bắt người của Cưu Ma Trí rất là kỳ dị. Bảo Ðịnh Ðế vừa bị nắm chặt cổ tay, vội vàng vận động nội lực, thúc đẩy chân khí ra huyệt đạo, liên tiếp chuyển đẩy tới bảy tám lần mà vẫn không sao gỡ tay ra được. Những bậc cao thủ tỷ thí với nhau, chỉ lỡ một nước là người ngoài khó bề cứu gỡ. Bảo Ðịnh Ðế đã bị địch thủ chế ngự được yếu huyệt rồi tức là tính mạng ở trong tay đối phương, bất cứ giờ phút nào lão bắt chết cũng phải chết. Bọn Thiên Nhân đều biết Cưu Ma Trí hành độngnhư vậy là quá ư đê hèn, mất hết danh sự một bậc cao thủ tuyệt đỉnh song chỉ căm phẫn ngấm ngầm chứ không có cách gì cứu gỡ được.
Khô Vinh đại sư cười nói:
-Ðoàn Chính Minh trước đây là Bảo Ðịnh Ðế, hiện giờ đã thoái vị đi tu pháp danh Thiên Trần. Quốc vương Thổ Phồn đã có ý thỉnh mời Thiên Trần cứ đi cũng được.
Bảo Ðịnh Ðế không sao được nên cũng gượng đáp:
-Xin vâng.
Bảo Ðịnh Ðế biết rõ dụng ý của Khô Vinh thiền sư. Cưu Ma Trí thấy mình là một vị quốc vương mà lão bắt được mới coi là một hoá phẩm trân kỳ. Ðằng này mình đã thoái vị đi tu, bất quá là một hoà thượng ở chùa Thiên Long, lão bắt được cũng chẳng có gì kỳ lạ. Chưa biết chừng vì thế mà lão thả ra cũng nên.
Sử dụng Lục mạch thần kiếm dù chỉ là một thế trong lục kiếm cũng phải là tay cao thủ bậc nhất, tinh thần cả võ lực lẫn nội công mới mong đạt được kết quả.
Những tay cao thủ hạng này đều biết nhau cả. Nhất là những bậc danh gia họ Ðoàn, cả tăng lẫn tục ở nước Ðại Lý hay chùa Thiên Long đối với Cưu Ma Trí thì chẳng những về diện mạo và niên kỷ lão đã dò hỏi tận tường mà cả về tính khí
cùng bản lãnh từng người lão cũng biết rõ đến chín phần mười. Cưu Ma Trí còn thông tỏ ngõ ngách trong chùa Thiên Long, ngoài Khô Vinh đại sư ra các vị cao thủ cùng hàng pháp danh đệm chữ Thiên chỉ có bốn người. Bây giờ thốt nhiên xuất hiện thêm một vị Thiên Trần nữa mà nội lực võ công cũng tương đương với bốn vị hoà thượng kia, dung mạo oai nghiêm, khí sắc đầy vẻ phú quý vinh hoa thì làm gì mà lão chẳng nhận ra ngay là Bảo Ðịnh Ðế. Vừa nghe Khô Vinh đại sư nói Bảo Ðịnh Ðế đã thoái vị đi tu Cưu Ma Trí sực nhớ ra lâu nay vẫn nghe các bậc đế vương họ Ðoàn nước Ðại Lý khi cao tuổi rồi thường thoái vị, xuất gia thì đối với việc Bảo Ðịnh Ðế thốt nhiên vào tu tại chùa Thiên Long cũng chẳng lấy gì làm lạ.
Chỉ có rằng một vị Hoàng đế xuất gia đi tu tất có toàn quốc cử hành diễn lễ rất trọng thể: thết sư, lễ Phật, tu lý chùa chiền cho nổi đình đám mấy hôm. Có lý nào nhà Vua lại xuất gia một cách không trống không kèn? Cưu Ma Trí nghĩ vậy liền đáp:
-Bảo Ðịnh Ðế xuất gia hay không xuất gia cũng được, dù sao cũng xin mời người sang chơi Thổ Phồn một chuyến để triều kiến quốc vương bên bần tăng.
Lão vừa nói vừa dắt Bảo Ðịnh Ðế ra ngoài. Thiên Nhân liền lên tiếng:
-Hãy khoan!
Ðoạn cùng với Thiên Quan nhảy ra, đứng chắn trước cửa.
Cưu Ma Trí nói:
-Tiểu tăng quyết không có ý gia hại Bảo Ðịnh hoàng thượng nhưng nếu các vị bức bách tiểu tăng quá thì tiểu tăng cũng không thể bảo toàn được đâu.
Lão vừa nói vừa vờ đưa tay trái đánh dứ vào hậu tâm Bảo Ðịnh Ðế. Bọn Thiên Nhân trong lúc giao thủ với Cưu Ma Trí vừa rồi đã hiểu rõ chưởng lực "hoả diệm đao" của lão lợi hại thế nào rồi. Bảo Ðịnh Ðế hiện bị lão nắm chặt mạch đạo rồi thì lão muốn giết hay làm gì thì làm nhà Vua không còn sức phản kháng được nữa.
Nếu mọi người hợp lực tấn công phần thì e ném chuột tất vỡ đồ phần e chưa chắc nắm được phần thắng.
Cưu Ma Trí nói tiếp:
-Tiểu tăng mất công đi lại vất vả, rất hổ thẹn cùng người bạn đã khuất, may mà mời được Bảo Ðịnh hoàng đế cùng về mới khỏi mang tiếng là một chuyến đi không về rồi. Xin tránh đường cho tôi đi chứ!
Bọn Thiên Nhân do dự đứng đờ người suy nghĩ: Bảo Ðịnh Ðế là một vị quốc vương nước Ðại Lý, không lẽ để cho địch nhân bắt đem đi? nhưng chưa biết đối phó bằng cách nào đánh tháo cho được.
Cưu Ma Trí lại nói lớn:
-Tôi vốn nghe đại danh các vị cao tăng chùa Thiên Long, không ngờ đối với một việc nhỏ mọn thế này mà cũng bịn rịn, bắt chước thói đàn bà con nít.
Ðoàn Dự thấy bá phụ bị bắt rất buồn bực. Lúc mới đầu chàng vẫn tưởng võ công của bá phụ cao cường tới bực nào, có sợ gì Cưu Ma Trí? Chẳng qua người phải tạm thời nhẫn nại, chờ cơ hội đến là người có thể tự thoát thân được ngay. Không ngờ mỗi lúc một thấy nguy nan. Giọng nói và nét mặt Cưu Ma Trí đầy vẻ kiêu ngạo,thần sắc Thiên Nhân, Thiên Quan và mọi người đều lộ vẻ buồn phiền phẫn nộ mà không làm sao được. Tới lúc Cưu Ma Trí cầm tay Bảo Ðịnh Ðế lôi đi, chạy ra ngoài cửa, Ðoàn Dự hoảng hốt không kịp nghĩ ngợi gì nữa, chàng la ầm lên:
-Ối ! Mi buông bá phụ ta ra!
Ðoàn Dự vừa la vừa đứng phắt dậy chạy theo. Cưu Ma Trí ngay lúc mới vào đã thấy một người ngồi trước mặt Khô Vinh đại sư nhưng vẫn chưa suy đoán người đó là ai và cũng không hiểu Khô Vinh bảo gã ngồi đó có dụng ý gì. Bây giờ thấy Ðoàn Dự đứng dậy đuổi theo, liền động tính hiếu kỳ quay lại hỏi:
-Tôn giá là ai?
Ðoàn Dự đáp:
-Mi đừng hỏi ta là ai vội! Hãy buông bá phụ ta ra trước đã rồi sẽ nói chuyện sau!
Nói xong Ðoàn Dự đưa tay ra nắm lấy cổ tay Bảo Ðịnh Ðế. Bảo Ðịnh Ðế lật bàn tay lại, nắm lấy tay Ðoàn Dự nói:
-Dự nhi! Cháu không phải bận lòng vì ta nữa! mau mau về giục phụ thân cháu lên ngôi Ðại Bảo, nắm lấy việc triều chính. Còn ta bây giờ đã thành một vị lão tăng mây ngàn hạc nội, không đáng quan tâm nữa.
Bàn tay Bảo Ðịnh Ðế vừa chạm vào tay Ðoàn Dự người bỗng giật thót lên một cái và cảm thấy hấp lực của Chu cáp thần công hút mạnh. Cưu Ma Trí cũng đồng thời cảm thấy chân lực trong mình cứ cuồn cuộn tiết ra ngoài. Song công lực của lão rèn luyện còn cao cường hơn Bảo Ðịnh Ðế nhiều. Lão ngờ là Bảo Ðịnh Ðế vận dụng công phu kỳ lạ để hút lấy nội lực của mình, lão liền ngưng tụ nội lực, định tranh đoạt cùng chân khí của Bảo Ðịnh Ðế.
Bảo Ðịnh Ðế sở dĩ bị Cưu Ma Trí chế ngự được là do trong lúc bất ngờ không đề phòng, bị đối phương đột nhiên dùng kỹ thuật tiểu nhân nắm được mà thôi, còn về nội lực võ công trong bản thân chưa bị hao tổn mảy may. Bỗng nhiên nhà Vua cảm thấy hai tay đồng thời có một mãnh lực giằng co liền dùng ngay phương pháp tá lực đả lực dẫn hai luồng nội lực cho gặp nhau ở một chỗ để hai bên kháng cự lẫn nhau.
Bảo Ðịnh Ðế lợi dụng lúc đó chỉ khẽ vẫy tay một cái đã thoát khỏi sự trói buộc của Cưu Ma Trí một cách dễ dàng, đem Ðoàn Dự cùng nhảy lùi lại và thầm tự nhủ: "Kể cũng đáng hổ thẹn, hôm nay mình phải nhờ đến Dự nhi cứu cho mới thoát được".
Cưu Ma Trí kinh hoảng vô cùng nghĩ thầm: "trong võ lâm lại mới xuất hiện một vị cao thủ thế mà sao mình không hay biết gì hết? Người này tuổi còn nhỏ, mới độ hai mươi trở lại mà sao bản lĩnh cao cường đến thế?".
Thấy Ðoàn Dự gọi Bảo Ðịnh Ðế bằng bá phụ Cưu Ma Trí trong lòng nghi hoặc tự hỏi: "Quái lạ! Sao ta chưa hề nghe nói tới trong đám con em họ Ðoàn nước Ðại Lý có một nhân vật đặc sắc như thế bao giờ?".
Cưu Ma Trí dở thủ đoạn thầm lén,nắm giữ được mạch đạo Bảo Ðịnh Ðế một cách dễ dàng, tưởng thành công đến nơi
mà lại sẩy. Lão không ngờ một gã thanh niên xen ngang vào phá đám, khiến lão căm giận, không thể nào nhịn được. Vẫn ra vẻ bình tĩnh, lão gật đầu lên giọng nói mát:
-Tiểu tăng vẫn tưởng họ Ðoàn nước Ðại Lý xưa nay chỉ chuyên về võ học tổ truyền, không theo những môn tạp nham không ngờ các bậc hiền tài hậu bối lại đi kết giao cả với Tinh tú Hải lão nhân để khảo luyện các kỳ môn võ học như môn "hoá công đại pháp" chẳng hạn. Thế thì lạ thật, quả là lạ thật!
Cưu Ma Trí tuy là người uyên bác hiểu rộng vẫn lầm tưởng "chu cáp thần công" của Ðoàn Dự là môn "hoá công đại pháp". Có điều lão còn biết tự trọng, không buông lời nói phũ phàng đả kích ai. Vì thế nên "Tinh Tú Hải lão ma" lão gọi đổi ra "Tinh Tú Hải lão nhân". Nhân vĩ võ lâm đều gọi "hoá công đại pháp" là yêu công hay tà thuật lão lại gọi tránh đi là kỳ môn võ học. Lão không dùng chữ đệ tử lão ma mà chỉ dùng chữ kết giao đủ biết lão là người rất tế nhị. Tuy lão cũng ngộ nhận như Thạch Thanh Tử song biết lựa lời thanh lịch, không như Thạch Thanh Tử hỏi một cách sống sượng, bốp chát.
Bảo Ðịnh Ðế cũng cười lạt nói móc:
-Lâu nay bần tăng vẫn ngưỡng mộ Ðại Luân Minh Vương là bậc đại trí tuệ, kiến thức sâu xa, thế mà sao cũng ăn nói hồ đồ đến thế? Tinh Tú lão ma làm nhiều điều phi nghĩa, con cháu họ Ðoàn khi nào lại có liên lạc với hắn?
Cưu Ma Trí đã hơi chột dạ, Ðoàn Dự lại nói tiếp:
-Mi là khách ở xa tới, chùa Thiên Long ta tiếp đãi trọng thể, thế mà mi cả gan dám xúc phạm đến bá phụ ta. Chẳng qua chúng ta thấy mi cũng là đệ tử nhà Phật nên mọi việc đều nhân nhượng, thì trái lại mi lại càng ngang ngược thêm. Những
người đã xuất gia có ai lại như mi? Chẳng biết giữ thanh quy một chút nào hết.
Mọi người thấy Ðoàn Dự lấy đại nghĩa trách mắng Cưu Ma Trí cũng hả dạ, đồng thời để hết tinh thần giới bị, sợ Cưu Ma Trí cáu tiết lên lại gia hại Ðoàn Dự một cách đột nhiên. Song lão sắc mặt vẫn điềm nhiên và nhã nhặn nói:
-Hôm nay được biết thêm một bậc cao hiền, còn hân hạnh nào bằng? xin đừng tiếc công chỉ giáo cho mấy hiệp, khiến tiểu tăng được thêm phần tiến ích.
Ðoàn Dự thản nhiên đáp:
-Ta không hiểu võ công và cũng chưa học võ bao giờ.
Cưu Ma Trí cười khành khạch đáp:
-Thật là cao minh! Cao minh! Thôi tiểu tăng xin cáo biệt vậy!
Lão vừa nghiêng người đi một chút đã phất tay áo đồng thời vươn bàn tay ra, lập tức bốn đường "hoả diệm đao" phát xuất nhằm đánh vào Ðoàn Dự.
Ðoàn Dự hoàn toàn không hiểu cách chống đỡ môn võ công thượng thặng này,chợt thấy những đòn ác liệt tập công tới chàng vẫn ù ù cạc cạc đứng ỳ ra.
Bảo Ðịnh Ðế và Thiên Tham đồng thời đánh luôn hai ngón tay ra để ngăn chặn bốn đường "hoả diệm đao". Bỗng thấy Cưu Ma Trí thân hình rung động không ngừng, chính là lúc lão tăng cường nội kình đến cực độ để xung kích. Thiên Tướng "oẹ" một tiếng, hộc máu tươi ra.
Bấy giờ Ðoàn Dự mới biết Cưu Ma Trí lại dùng cách đánh lén lút,liền nổi cơn thịnh nộ, chỉ vào mặt Cưu Ma Trí mắng:
-Gã phiên tăng kia! Mi thật là dã man vô lý.
Ðoàn Dự vừa mắng vừa đưa ngón tay trỏ dùng sức phóng mạnh ra, tâm khí giao thông, tự nhiên sử dụng thành thế "phương dương kiếm" với một nội lực hùng hậu vô song.
Ðoàn Dự lúc trước ngồi trước mặt Khô Vinh đại sư để xem đồ hình và các vận dụng Lục mạch thần kiếm. Sau khi nhận xét và ghi nhớ tỏ tường bây giờ đem sử dụng thí nghiệm một ngón đầu tiên không ngờ lại ám hợp đúng như trong kiếm phổ. Sức nội kình phóng ra mãnh liệt, nghe kêu "vo vo" nhằm đâm thẳng vào Cưu Ma Trí, đấy chính là đòn "kim châm độ kiếp".
Cưu Ma Trí không thể tưởng tượng được nội lực của Ðoàn Dự lại ghê gớm đến thế. Ðòn "kim châm độ kiếp" này lúc phóng ra tuyệt ở chỗ vụng mà khéo, trơn mà rít hợp với yếu quyết của kiếm pháp thượng thừa.
Cưu Ma Trí hốt hoảng, vội vàng dùng chưởng lực đẩy mạnh "hoả diệm đao" để chống đỡ.
Ðoàn Dự ra tay chẳng những làm cho Cưu Ma Trí phải kinh dị mà ngay đến Khô Vinh cùng bọn Thiên Nhân cũng cho là một sự không bao giờ nghĩ tới. Nhất là Bảo Ðịnh Ðế và chính Ðoàn Dự lại càng lấy làm quái lạ.
Ðoàn Dự tự nghĩ: "sao mình ngẫu nhiên đánh ra một chỉ mà Cưu Ma Trí lại phải để hết tâm thần ra chống đỡ như thế? Rồi chàng lại tự trả lời: phải rồi, phải rồi, chắc là mình xuất chỉ đúng cách thức nên lão cho là mình biết sử dụng Lục mạch thần kiếm. Ha ha! đã thế ta phải cho lão hoảng vía một phen". Chàng liền quát lớn:
-Thế "thương dương kiếm" có chi đáng kể? Ðể ta sử dụng mấy đường "trung xung kiếm" cho mi coi!
Nói xong chàng đưa ngón tay giữa ra điểm. Song chỉ pháp tuy đúng nhưng kình lực không vận dụng tiếp theo được, thành ra chỉ là đường đánh hư không, mà chẳng có mảy may hiệu lực.
Cưu Ma Trí lúc mới thấy Ðoàn Dự điểm ngón tay giữa đã sắp sẵn các thế để tiếp chiến, không ngờ đối phương đánh không thấy một chút kình lực nhưng lão vẫn còn nghi hoặc cho là đối phương dùng lối hư hư thực thực mà sẽ có đường đánh lợi hại tiếp theo. Dợi tới khi Ðoàn Dự sử dụng đường thứ hai vẫn rỗng tuếch như trước, lúc đó Cưu Ma Trí mới mừng thầm nghĩ bụng: "ta vẫn nói ở trên đời này làm gì có người sử dụng được "thương dương kiếm" mà kiêm được cả "trung xung kiếm" nữa? quả nhiên thằng lỏi này hư trương thanh thế để chộ người. Ðã thế thì ta cho nó một phen bở vía chơi".
Cưu Ma Trí là người rất tự phụ, mà đã tự phụ tất sinh lòng đố kỵ. Chuyến này lão đến chùa Thiên Long bị thất thế luôn mấy lần. Lão nghĩ nếu không làm cho tỏ mặt một phen thì oai danh Ðại Luân Minh Vương bị tổn thương nhiều lắm. Tức thì lão đưa tay trái đánh liên tiếp hai chưởng, hướng cả về hai bên tả hữu, dùng kình lực để phong toả đường cứu viện của Bảo Ðịnh Ðế và mọi người. Tiếp theo lão dùng thế "bạch hồng quán nhật" trong đao pháp "hoả diệm đao" chém thẳng vào vai bên phải Ðoàn Dự. Lão dùng đường đao tinh diệu này cốt chém cho Ðoàn Dự cụt cánh tay phải.
Bảo Ðịnh Ðế, Thiên Nhân và Thiên Tham đồng thanh la lên:
-Phải cận thận đấy!
Rồi mọi người đều đưa ngón tay ra điểm về phía Cưu Ma Trí. Ba người xuất chiến đều là những đòn trong võ công thượng thừa, bắt buộc đối phương phải thu chiêu về để tự cứu. Nào ngờ Cưu Ma Trí đã vận dụng nội kình để phòng giữ tất cả các chỗ yết huyệt trong toàn thân rồi nên lão không cần thu đao về, cứ nhằm thẳng Ðoàn Dự bổ xuống. Ðoàn Dự nghe tiếng bá phụ biết ngay là nguy đến nơi rồi,chàng vội đưa hai tay đồng thời đánh luôn hai chỉ. Trong lúc kinh hoảng, chân khí tự nhiên xuất phát, "thiếu trạch kiếm" bên tay phải, "thiếu xung kiếm" bên tay trái,hai kiếm đồng thời xông ra đón "hoả diệm đao". Dư thế vẫn còn phát ra những tiếng "vo vo", phản kích lại Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí hốt hoảng không kịp suy nghĩ gì hết, vội dừng tay trái phát động kình lực để chặn đòn. Ðoàn Dự sau khi phóng mấy thế kiếm, trong lòng đã hơi hiểu rõ cách sử dụng kiếm khí. Trước hết phải có một ý niệm, rồi mới vận chân khí ra ngón tay, có thế chân khí mới xuất phát ra được. Song chàng vẫn không hiểu tại sao phải làm như vậy. Ðoàn Dự khẽ búng ngón tay giữa, lại sử dụng "trung xung kiếm pháp". Chỉ trong chớp mắt, sáu đường kiếm ở trong quyển đồ hình mà chàng vừa được xem qua trong lúc ngồi trước mặt Khô Vinh đại sư lần lượt hiển hiện ra trước mặt chàng một cách rất rõ ràng. Mười đầu ngón tay cứ liên tiếp bật ra, qua đường này tiếp đến đường khác, tự nhiên thấy kiếm pháp nhập diệu, tựa hồ một nghệ sỹ tài cao tay vẫn gẩy đàn mà mắt vẫn nhìn chim nhạn bay qua.
Cưu Ma Trí lại càng kinh hoảng, luôn luôn tiếp vận nội lực để chống đỡ với Lục mạch thần kiếm.
Trong căn nhà lúc này chỉ thấy kiếm khí dọc ngang, gươm đao bay lượn, xung kích chen lấn nhau tựa hồ sấm vang gió rít. Giao đấu được một lúc, Cưu Ma Trí nhận thấy đối phương kình lực mỗi lúc một mạnh,kiếm pháp cũng biến hoá khôn lường, tuy từng lúc từng chỗ nó tự sáng tác ra những điểm mới lạ khiến cho người không biết đâu mà mò.
Cưu Ma Trí mỗi lúc một thêm kinh hoảng và hối hận, lão nghĩ thầm: "không ngờ trong chùa Thiên Long lại có bậc cao thủ còn nhỏ tuổi như thế. Hôm nay Cưu Ma Trí này chính là tự mình đi chuốc lấy cái nhục vào thân". Ðột nhiên nghe "vu vu vu". Cưu Ma Trí đánh liền ba đao và nói:
-Hãy ngừng tay!
Ðoàn Dự tuy học được Lục mạch thần kiếm song chưa thể phát động chân khí hay thu về theo ý mình được. Vừa nghe đối phương kêu ngừng tay, chàng luýnh quýnh không biết cách thu nội lực về, đành đưa ngón tay chỉ thẳng lên nóc nhà
đồng thời bụng nghĩ: "thôi ta cũng không nên phát kình lực ra nữa, để xem y nói gì đã".
Cưu Ma Trí quả thông minh hơn người, nhìn Ðoàn Dự có vẻ lờ ngờ, đồng thời lúc thu điểm chân khí chân tay luống cuống, trông rõ dáng điệu người kém võ công. Lão chợt nảy ra một ý nghĩ, tức thời nhảy lên một bước giơ tay đấm thẳng một quyền vào mặt Ðoàn Dự.
Ðoàn Dự nhờ duyên cơ đưa tới, tuy có học được môn võ rất cao thâm Lục mạch thần kiếm nhưng ngoài ra về các môn quyền cước binh khí thông thường khác chàng hoàn toàn không hiểu tý gì.
Ðoàn Dự đưa cánh tay lên đỡ đường quyền của đối phương một cách rất ngượng nghịu.
Cưu Ma Trí liền lật bàn tay phải túm ngay "thần phong huyệt" ở trước ngực chàng. Tức khắc người chàng mềm nhũn, chân tay không cử động được nữa.
Cưu Ma Trí tuy đã khám phá được nhược điểm trong võ học của Ðoàn Dự nhưng cũng không ngờ bắt được chàng một cách quá dễ dàng như thế. Lão vẫn còn sợ chàng giả vờ ngớ ngẩn mà dùng quỷ kế gì khác chăng nên lúc nắm được "thần phong huyệt" rồi lão đưa ngón tay điểm luôn thêm ba đại huyệt: "đản trung", "đại thôi" và "kinh môn". Người đã bị điểm những đại huyệt đó rồi, quyết không thể nào còn phản kháng lại được nữa. Song đồng thời Cưu Ma Trí cảm thấy chân lực trong mình luôn luôn theo bàn tay phải tiết ra ngoài. Lão vội vàng đưa bàn tay trái nắm chặt lấy tay phải của mình, lùi lại ba bước rồi nói:
-Vị tiểu thí chủ này trong bụng đã nhớ hết đồ hình về Lục mạch thần kiếm.
Quyển đồ hình đã bị Khô Vinh đại sư đốt cháy rồi...
Lúc Cưu Ma Trí cất tiếng nói thì lại không giữ được chân khí khỏi bị tiết ra ngoài nên y vội vội vàng vàng nói vắn tắt:
-Tiểu thí chủ đây là quyển đồ hình sống... đem gã đốt sống trước mồ Mộ Dung tiên sinh, cũng như là đốt quyển đồ hình vậy...
Cưu Ma Trí sợ phe Khô Vinh đại sư nhận thấy nhược điểm của mình trong lúc nói năng mà xúm lại tấn công chăng, lão liền giơ tay trái đánh luôn ra năm đường đao, nhằm về phía trước. Bóng lão thoáng chuyển động một cái đã rút lui ra khỏi cửa mầu ni đường. Bọn Bảo Ðịnh Ðế, Thiên Quan, Thiên Nhân rượt theo để cướp người lại đều bị sức ngũ đao liên hoàn vây bọc, ngăn giữ không có cách nào tiến lên được.
Cưu Ma Trí cầm Ðoàn Dự quăng cho chín tên hán tử đợi ở ngoài cửa rồi quát giục:
-Các người rút cho mau!
Hai tên hán tử đồng thời đưa tay đón lấy Ðoàn Dự, rồi đi xuyên qua rừng cây,chạy rẽ đi lối khác chứ không theo đường cái.
Cưu Ma Trí sau khi trao Ðoàn Dự cho người khác, chân khí không bị tiết ra nữa. Lão lại huy động "hoả diệm đao"
chém tới tấp vào cửa mầu ni đường.
Bọn Bảo Ðịnh Ðế đều dùng phép Nhất Dương Chỉ xung kích nhưng vẫn không sao phá vỡ được vòng vây bằng lưỡi đao vô hình của đối phương.
Cưu Ma Trí nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập, biết là thủ hạ đã đem Ðoàn Dự lên đường về Bắc rồi.
Lão đắc ý cười một tràng dài nói:
-Ðốt mất quyển đồ hình chết, lại được quyển đồ hình sống. Mộ Dung tiên sinh lại có bạn ở dưới suối vàng sẽ khỏi phải tịch mịch.
Ðoạn lão dùng tay phải đánh chéo lại một chưởng. Nghe tiếng kêu rắc rắc. Hai cây cột ở toà mầu ni đường đã bị "hoả diệm đao" chém gẫy rồi. Lão phi thân thoảng như một làn khói, thoắt đã biệt dạng, không biết đi về phương hướng nào.
Bảo Ðịnh Ðế và mọi người đều dùng kinh công tuyệt đỉnh đuổi theo, nhằm thẳng về phía Bắc.
Ðoàn Dự bị Cưu Ma Trí điểm các huyệt đạo, không cử động gì được nữa, chàng bị gác ngang lưng ngựa, mặt cúi sấp xuống, chỉ nhìn thấy mặt đất như chạy lùi về phía sau. Vó ngựa chạy như bay, miệng mũi đầy cát bụi, tai nghe những tên hán tử nói líu lo toàn tiếng Phiên, chẳng hiểu là chúng nói gì. Ðoàn Dự đếm được bốn mươi chân ngựa, biết là cả bọn chúng đi có mười người. Ði được chừng hơn mười dặm, tới khúc đường rẽ, chàng thấy Cưu Ma Trí nói líu lo mấy câu rồi năm con ngựa đi về bên trái, còn Cưu Ma Trí và một tên áp giải chàng cùng ba người nữa đi rẽ về bên phải. Lại đi chừng hai dặm nữa thì tới chỗ rẽ thứ hai năm người này lại đi ra làm hai ngả.
Ðoàn Dự biết Cưu Ma Trí sở dĩ chia ra đi mấy ngả như thế là chủ ý đánh lạc hướng, khiến cho truy binh không biết đâu mà đuổi theo. Lại đi một hồi nữa, Cưu Ma Trí xuống ngựa, lấy một đoạn dây da, buộc ngang lưng Ðoàn Dự, tay
trái lão xách ngang người chàng đi về phía rặng núi còn hai tên hán tử đi rẽ về phía Tây.
Ðoàn Dự ngấm ngầm xuýt xoa và tự nghĩ: "dù bá phụ có phái một đoàn thiết giáp kỵ binh, đuổi theo không ngừng bước, bất quá cũng chỉ bắt hết được chín tên tuỳ tùng là cùng, không thể nào cứu được mình về.
Cưu Ma Trí xách một người bên tay mà lão đi nhẹ như không, mỗi lúc đi một mau hơn. Ði như thế chừng độ ba giờ mà toàn xuyên qua rừng qua núi. Mặt trời đã ngả về phía tây, ánh nắng rọi từ bên trái tới Ðoàn Dự biết là Cưu Ma Trí đem mình về hướng bắc. Ðến lúc gần tối,Cưu Ma Trí gác Ðoàn Dự lên một cành cây rồi lấy dây da trói vào. Lão chẳng nói
câu gì hết, thậm chí chẳng thèm nhìn đến nữa, chỉ đặt lên trên lưng chàng mấy cái bánh khô rồi đưa ngón tay giải một huyệt đạo cổ tay trái cho chàng để có thể lấy được bánh mà ăn.
Ðoàn Dự duỗi tay trái ra, định vận khí để sử dụng "thiếu trạch kiếm" để đánh lão nhưng chàng có biết đâu sau khi các đại huyệt trong người bị điểm rồi thì toàn thân chân khí bị phong toả nên ngón tay chàng hí hoáy mãi mà không có chút nội lực nào phát ra hết. Hai ngày liền Cưu Ma Trí vẫn xách Ðoàn Dự đi về phía Bắc.
Mấy lần chàng gợi chuyện, hỏi lão sao lại bắt chàng và đem chàng về Bắc để làm gì Cưu Ma Trí vẫn làm thinh không trả lời. Ði mãi tới mười ngày, đã ra khỏi địa giới nước Ðại Lý, Ðoàn Dự nhận thấy Cưu Ma Trí lại xoay hướng đi về phía Ðông Bắc nhưng vẫn tránh không đi đường lớn, cứ đi tắt qua những cánh rừng hoang núi rậm.
Chàng để ý nhìn nhận thấy địa thế mỗi lúc một bằng phẳng, núi dần dần ít đi mà sông ngòi lại nhiều ra.
Trong một ngày phải đi qua mấy lần đò.
Cưu Ma Trí xách Ðoàn Dự đi đường như vậy cũng làm cho người qua đường phải kinh khủng. Về sau hễ ra cửa là gặp người đi lại rồi song cũng không có ai hỏi han gì.
Ðoàn Dự lòng phẫn uất, chàng nhớ lại lúc bị cô em Mộc Uyển Thanh bắt, tuy ngày nào cũng bị đánh vùi đánh dập kể có đau thật nhưng không đến nỗi buồn bực như lần này. Lại đi hơn mười ngày nữa, Ðoàn Dự nghe thấy tiếng người nói thanh nhã dịu dàng thì nghĩ bụng: "chắc đây là địa giới Giang Nam rồi, nếu lão đem mình đi tế sống Mộ Dung tiên sinh thì chỉ một ngày nữa là tới nơi. Lão Phiên tăng này võ công lợi hại như thế, ngay phe bá phụ mình sáu
người hợp lại mà còn không ngăn nổi lão. Bây giờ mình đã lọt vào tay lão rồi, chỉ có cách để mặc lão muốn giết thì giết, muốn mổ thì mổ chứ chẳng còn hi vọng gì nữa. ý chí ngang bướng đã chớm nở, chàng không thèm lo nghĩ gì hết ngẩng đầu lên ngắm phong cảnh. Tiết trời đang độ tháng ba, ngõ hạnh đầy hoa, ven hồ rủ liễu, gió xuân phơi phới thổi nhẹ bên mình khiến cho người chàng như say sưa ngây ngất.
Ðoàn Dự bị Cưu Ma Trí xách đi hơn một tháng, khổ cũng quen rồi, bây giờ thấy thắng cảnh ngày xuân phong quang như vậy, bất giác trong lòng sảng khoái, buột miệng ngâm:

Trường Giang từng đợt sóng dồi
Ngẩn ngơ bờ liễu lôi thôi mấy hàng
Bốn bề xa vắng thôn trang
Phất phơ hoa hạnh, ánh dương tà tà.
Về Đầu Trang Go down
Oz Vessalius
Tướng Quân
Tướng Quân
Oz Vessalius

Tổng số bài gửi : 95
Điểm Thưởng : 5149
Độ Tin Tưởng : 104
Join date : 05/01/2011

Thiên Long Bát Bộ - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ   Thiên Long Bát Bộ - Page 2 I_icon_minitimeThu Jan 06, 2011 5:26 pm

Hồi 27

Cái Mũi Thần Tình
Cưu Ma Trí nghe Ðoàn Dự ngâm thơ, cười lạt nói:
-Chết đến gáy mà mi vẫn còn khoái lắm nhỉ. Vài bữa nữa rồi xuống âm cung mà ngâm thơ vịnh phú vớ Diêm Vương.
Ðoàn Dự cười nói:
-Thiên hạ ai là ngườ i không chết? Mi sống thêm mấ y năm nữa có hơn ai được cái gì không?
Cưu Ma Trí không nói nữa, quay ra hỏi thăm những người qua đường Tham Hợp trang ở đâu. Lão hỏi đến bảy tám người mà chẳng ai biết. Sau có ông già bảo:
-Thành Cô Tô không có đâu là Tham Hợp trang cả. Có lẽ hoà thượng nghe lầm chăng?
Cưu Ma Trí lại hỏi:
-Lão trượng có biết đại trang chúa người họ Mộ Dung ở đâu không?
Ông già đáp:
-Trong thành Tô Châu này chỉ có họ Cố, họ Lục, họ Trương, họ Chu, họ Văn...làm gì có đại trang chúa cùng Mộ Dung? Tôi chưa thấy ai nói đến cả.
Cưu Ma Trí chưa biết tìm cách nào để hỏi cho ra địa chỉ Mộ Dung tiên sinh, chợt nghe tiếng một người đang đi trên còn đường nhỏ về phía tây nói: tôi nghe nói họ Mộ Dung ngụ ở ngoài thành, đi về phía Tây chừng 30 dặm, chỗ đó gọi là Yến Tử Ổ.
Chúng ta tới đó xem sao?
Rồi lại có tiếng người khác gạt đi:
-Thôi! Ðây đã đến địa đầu rồi. Ta phải cẩn thận mới được.
Hai người nói rất khẽ, Ðoàn Dự không nghe thấy chi cả Cưu Ma Trí vì tuyệt giỏi nội công mới nghe rõ. Lão nghĩ thầm: phải chăng hai người này chủ tâm nói cho ta nghe tiếng?
Cưu Ma Trí đưa mắt nhìn về phía vừa phát ra tiếng nói thì thấy một người khí vụ hiên ngang, vận đồ tang phục còn một người thấp lủn thủn và gầy đét, trông chẳng khác chi ác quỷ hung thần.
Cưu Ma Trí biết ngay người đó có võ công đáng kể.
Lão còn đang suy nghĩ có nên cùng bọn này bắt chuyện không bỗng Ðoàn Dự lên tiếng gọi to:
-Hoắc tiên sinh! Hoắc tiên sinh đi đâu đấy?
Nguyên người thấp lủn thủn, hình dung cổ quái đó chính là Kim Toán bàn Thôi Bách Kế và sư điệt ông là Truy hồn thủ Quá Ngạn Chi. Hai người sau khi từ biệt Trấn Nam Vương phủ nước Ðại Lý ra đi, quyết tâm báo thù cho Kha Bách Tuế.
Mặc dầu họ biết rõ khó có thể địch lại nhà Mộ Dung, mối thù không đội trời chung vị tất đã trả được nhưng là những người nghĩa dũng, họ can đảm tìm đến Cô Tô.
Công việc đầu tiên của hai người là thám thính họ Mộ Dung ngụ tại Yến Tử Ổ, đang đi trên đường thì gặp Cưu Ma Trí cùng Ðoàn Dự.
Thôi Bách Kế chợt nghe tiếng Ðoàn Dự gọi rất đỗi ngạc nhiên nhảy ngay đến trước mặt Cưu Ma Trí hỏi:
-Tiểu Vương gia đó ư ? Ô kìa đại hoà thượng ! Xin buông ngay công tử xuống cho! Hoà thượng có biết công tử là ai đó không?
Thực ra Cưu Ma Trí chẳng coi hai người vào đâu nhưng lão nghĩ rằng từ lúc chưa đến Trung Nguyên mình đã biết khó lòng tìm ra chỗ ở của Mộ Dung tiên sinh. Nay có bọn này dẫn lối cho kể cũng là một dịp may cho mình bèn buông
Ðoàn Dự xuống, để chàng đứng vững rồi giải các huyệt đạo ở hai chân chàng, đoạn quay lại bảo hai người:
-Tôi cũng đến chỗ Mộ Dung tiên sinh đây. Phiền hai vị dẫn đường cho!
Thôi Bách Kế tuy là người lịch duyệt giang hồ, biết nhiều hiểu rộng mà chưa đoán ra lai lịch nhà sư này, bèn hỏi:
-Xin hỏi đại sư chúng tôi xưng hô với đại sư thế nào cho phải? sao đại sư lại làm khó dễ với tiểu Vương gia họ Ðoàn như vậy? Ðại sư lên phủ Mộ Dung có việc gì?
Cưu Ma Trí đáp lộc cộc:
-Bất tất phải hỏi nhiều, tới nơi sẽ biết!
Thôi Bách Kế lại hỏi:
-Phải chăng đại sư là chỗ bạn thân với nhà Mộ Dung?
Cưu Ma Trí đáp:
-Phải! Mộ Dung tiên sinh ở Tham Hợp trang, không biết đi về ngả nào? Hoắc tiên sinh có biết thì chỉ dùm cho!
Lão thấy Ðoàn Dự gọi Thôi Bách Kế là Hoắc tiên sinh cũng tưởng y là Hoắc thật mặc dầu lão trí mưu hơn người nhưng cũng chưa hiểu lý do.
Thôi Bách Kế bóp trán suy nghĩ rồi hỏi Ðoàn Dự:
-Tiểu vương gia! Bây giờ Tiểu Vương gia tính sao đây?
Câu hỏi này khiến cho Ðoàn Dự phải chưng hửng. Chàng nghĩ thầm: "Cưu Ma Trí võ công ghê gớm, trên đời này sợ không ai địch nổi. Bọn Thôi, Quá tất nhiên so vớ i lão không thấm vào đâu. Nếu hai người này lại cố ý cứu mình thì chẳng những không ăn thua gì mà chết uổng hai mạng". Nghĩ vậy chàng dùng lời cảnh cáo để bọn họ biết đường cao chạy xa bay là hơn chàng nói:
-Vị đại sư đây một mình mà đánh bại bá phụ tôi cùng năm tay cao thủ nước Ðại Lý, bắt tôi đem đến đây. Nguyên đại sư là bạn cố tri với Mộ Dung tiên sinh, nay đại sư đưa tôi đến hoả thiêu trước mồ Mộ Dung tiên sinh để tế vong hồn người bạn quá cố. Tôi tưởng hai vị không có dính líu gì đến nhà Mộ Dung thì nên chỉ đường cho đại sư rồi về đi là hơn.
Thôi Bách Kế cùng Quá Ngạn Chi nghe lão đại sư này đánh bại Bảo Ðịnh Ðế cùng bọn cao thủ nước Ðại Lý quả nhiên chột dạ, khi nghe lão là bạn với bọn Mộ Dung thì lại càng khiếp sợ.
Thôi Bách Kế tuy mặt mũi xấu xa, hình dung cổ quái nhưng có nghĩa khí hào hiệp nghĩ thầm: "mình đã ẩn thân tại phủ Trấn Nam Vương mười mấy năm trời chưa từng báo đáp ơn sâu. Nay tiểu vương gia gặp nạn có lý đâu mình tự thủ bàng quan được? Hơn nữa mình đã tìm vào Cô Tô thì cái mạng này coi có cũng như không, bất luận chết dưới lưỡi đao của kẻ địch hay chết bới tay người khác cũng thế thôi". Nghĩ vậy Thôi liền thò tay vào bọc lấy ra một cái bàn tính bằng hoàng kim sáng rực, giơ cao lên, lắc cho nó kêu loảng xoảng rồi bảo Cưu Ma Trí:
-Này này đại hoà thượng! Ðại hoà thượng là bạn thân với Mộ Dung tiên sinh thì tiểu vương gia đây cũng là hảo hữu của tôi, đại hoà thượng nên buông tha tiểu vương gia ra!
Thôi Bách Kế chưa nói dứt câu Cưu Ma Trí đã vươn tay ra giựt được cây nhuyễn tiên của Quá Ngạn Chi đang cầm, rồi thuận tay lão quăng nhuyễn tiên quấn lấy bàn tính ở trong tay Thôi Bách Kế. Hai binh khí chạm vào nhau, rời khỏi tay người cầm, bay tung ra rớt xuống hồ. Ai nấy đều nhìn thấy cặp khí giới quý báu này sắp chìm xuống đáy hồ. Không ngờ đà kình lực Cưu Ma Trí xử khéo làm sao, một đầu cây nhuyễn tiên văng lại, mắc vào một cành liễu trên mặt hồ.
Quá Ngạn Chi ngoại hiệu là "truy hồn thủ" ra tay cực kỳ mau lẹ, sử dụng cây nhuyễn tiên lại là một môn tuyệt kỹ của chàng vậy mà chưa đánh xong một đòn đã bị Cưu Ma Trí giật rời khỏi tay. Mấy cử động của Cưu Ma Trí: nào xích lại gần,nào vươn tay giật roi nhuyễn tiên, nào vẫy roi cuốn lấy bàn tính, nào lui về chỗ cũ lẹ đến nỗi cả Thôi Bách Kế lẫn Quá Ngạn Chi hai người cũng không trông rõ nữa.
Cưu Ma Trí chắp hai tay để trước ngực, nét mặt vẫn thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra nói:
-Phiền đại giá hai vị dẫn đường cho!
Thôi, Quá hai người ngơ ngác nhìn nhau, không biết làm thế nào. Cưu Ma Trí lại nói tiếp:
-Nếu hai vị không dẫn đường thì xin chỉ nẻo cho biết Yến Tử ổ, Tham Hợp trang đi về ngả nào, đường lối ra sao, để tiểu tăng tự đi đến nơi cũng được.
Thôi, Quá hai người thấy võ công lão vô cùng lợi hại mà vẻ mặt lại khiêm tôn,ôn hoà là thế muốn trở mặt không được mà không trở mặt không xong. Giữa lúc ấy bỗng nghe có tiếng rạt rào, trên mặt hồ nước biếc một con thuyền nhỏ đang rẽ nước lướt tới.
Trên thuyền một thiếu nữ áo xanh cầm đôi mái chèo khuấy nước cho thuyền chạy, miệng cô đang ca khúc "Hạm thiều hương". Giọng hát dịu dàng không có vẻ lả lơi khiến người nghe cũng cảm thấy nỗi vui mừng.
Ðoàn Dự ở nước Ðại Lý từng đọc văn chương thơ phú của cổ nhân, tán tụng phong cảnh nhân vật Giang Nam. Nay chàng được nghe khúc hát này tâm hồn bất giác say sưa như lạc vào cõi mộng. Quên mình đang đứng trước hoàn cảnh hiểm nghèo quay ra nhìn thiếu nữ. Tay nàng nhỏ nhắn, nước da trắng mịn ánh xuống hồ nước xanh biếc và trong leo lẻo.
Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi tuy đứng trước mặt kẻ địch ghê gớm cũng không khỏi đưa mắt nhìn cô gái mấy lần. Chỉ mình Cưu Ma Trí là tựa hồ như không trông thấy hay không nghe thấy gì mà thôi. Lão nói:
-Nếu hai vị không chịu chỉ Tham Hợp trang cho thì tiểu tăng xin cáo từ.
Lúc đó thiếu nữ đã chèo thuyền đến gần bờ. Nàng nghe Cưu Ma Trí nói vậy liền cất tiếng:
-Chẳng hay đại hoà thượng đến Tham Hợp trang có việc gì?
Giọng nàng cực kỳ thanh tao êm ái khiến ai nghe cũng lọt tai. Thiếu nữ mới chừng 15, 16 tuổi, nét mặt ôn nhu, con người thanh tú.
Ðoàn Dự nghĩ thầm: " các cô gái ở Giang Nam có tiếng là xinh đẹp tưởng cũng đến thế này mà thôi".
Cưu Ma Trí hỏi:
-Tiểu tăng muốn đến Tham Hợp trang. Tiểu nương tử có thể trỏ đường lối cho tiểu tăng được không?
Thiếu nữ mỉm cười hỏi lại:
-Cái tên Tham Hợp trang người ngoài không ai biết đến. Ðại sư nghe đâu mà biết?
Cưu Ma Trí đáp:
-Tiểu tăng là bạn phương xa với Mộ Dung tiên sinh. Hôm nay đến tế mộ tiên sinh cho vẹn lời ước năm xưa.
Thiếu nữ trầm ngâm rồi nói:
-Nếu vậy không may cho đại sư rồi! Hôm kia Mộ Dung công tử mới ra đi. Giả tỷ đại sư đến đây trước ba hôm thì được gặp.
Cưu Ma Trí nói:
-Tiểu tăng thật vô duyên cùng công tử nghĩ cũng đáng buồn. Song tiểu tăng từ nước Thổ Phồn, đường xa muôn dặm, lặn lội về đến Trung Nguyên chỉ mong được tới trước mồ Mộ Dung tiên sinh lạy một lạy cho chọn nghĩa xưa.
Thiếu nữ nói:
-Nếu đại sư đã là chỗ giao hữu cùng Mộ Dung tiên sinh thì xin mời đại sư hãy vào dùng trà để cháu sẽ vào báo trang nên chăng?
Cưu Ma Trí hỏi lại:
-Tiểu nương tử là người thế nào trong phủ công tử? Xưng hô sao cho phải phép?
Thiếu nữ mỉm cười đáp:
-Cháu là kẻ nữ tỳ chầu chực công tử trong cung đàn tiếng sáo tên gọi A Bích.
Xin đại sư miễn khách sáo và đừng kêu bằng đại nương tử tiểu nương tử chi hết.Cứ gọi thẳng tên A Bích cho tiện.
Ðoạn nàng tiếp:
-Từ đây vào Yến tử ổ toàn là đường thuỷ. Quý vị có muốn vào thì xuống thuyền để tiểu nữ chở đi.
Cưu Ma Trí cám ơn rồi nắm tay Ðoàn Dự nhẹ nhàng nhảy xuống thuyền, thuyền chỉ đầm xuống một chút chứ không tròng trành.
A Bích nhìn Cưu Ma Trí và Ðoàn Dự mỉm cười tựa hồ thán phục võ công của hai người.
Quá Ngạn Chi khẽ hỏi Thôi Bách Kế:
-Sư thúc tính sao bây giờ?
Hai người cốt tìm đến nhà Mộ Dung để báo thù nhưng chưa tới nơi đã xẩy ra mấy vụ rùng rợn vẫn còn nơm nớp lo âu.
A Bích tươi cười nói:
-Hai vị đã đến Tô Châu nếu không có việc gì gấp xin mời vào tệ xá xơi nước.
Cái thuyền này tuy nhỏ nhưng hai vị xuống nữa cũng được.
Nàng vừa nói vừa ghé thuyền vào bên cây liễu, giơ bàn tay xinh xắn ra với lấy cây bàn tính, tiện tay nàng gẩy bàn tính lách cách.
Ðoàn Dự nghe vui tai buột miệng nói:
-Cô gẩy khúc thái tang tử phải không?
A Bích mỉm cười nói:
-Công tử tinh thông âm nhạc gẩy chơi một khúc đi!
Ðoàn Dự thấy nàng ăn nói tự nhiên, tính tình khả ái cười đáp:
-Tôi không biết gẩy đàn bằng bàn tính.
Rồi chàng quay lại bảo Thôi Bách Kế:
-Hoắc tiên sinh! Cái bàn tính của tiên sinh mà cô nương đây gẩy nghe cũng vui tai đấy chứ?
Thôi Bách Kế cười hềnh hệch đáp:
-Quả vậy! Hay lắm! Cô nương thực là người tao nhã. Cái đồ vật phàm tục dùng làm sinh kế vào tay cô nương cũng thành ra nhạc khí được.
-Trời ơi! ghê quá! Của tiên sinh đấy ư? Bàn tính gì mà đẹp quá vậy? Chắc tiên sinh giàu có lắm, cái bàn tính cũng đúc bằng vàng ruột. Tôi xin trả tiên sinh đây!
Nàng vừa nói vừa cầm bàn tính giơ lên. Thôi Bách Kế đứng trên bờ không với tới, lẹ làng nhảy xuống thuyền, đưa tay ra với lấy bàn tính rồi quay đầu lại trừng mắt nhìn Cưu Ma Trí một cái.
Cưu Ma Trí thuỷ chung vẫn giữ bộ mặt tươi cười vui vẻ, tuyệt không lộ vẻ gì tức giận cả.
A Bích lại đưa tay trái ra lượm cây nhuyễn tiên, năm ngón tay nàng cũng bật cũng gõ vào cây roi thành những âm thanh trong trẻo vang dội như kiểu gẩy đàn tỳ bà. Thì ra cả đến những binh khí của các bậc anh hùng hào kiệt vào tay nàng cũng thành nhạc khí cả.
Ðoàn Dự lại reo lên:
-Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu! Cô nương gảy khúc nữa đi!
A Bích trông lên Quá Ngạn Chi hỏi:
-Cây nhuyễn tiên của tiên sinh phải không? tôi đem ra nghịch thực vô lễ quá.
Tiên sinh xuống thuyền đi rồi tôi hái cho tiên sinh mấy trái hồng lăng.
Quá Ngạn Chi nóng lòng báo cừu cho sư phụ chàng căm thù cả bè lũ nhà Mộ Dung thấu xương nhưng thấy cô bé này xinh tươi, chất phác không có vẻ gì là nham hiểm độc ác nên chàng tuy giận đầy ruột mà không dám phát cáu. Chàng
nghĩ thầm: "thị dẫn ta về nhà là có chuyện không hay đây. Thôi được, nếp tẻ gì không cần, ta hãy vào giết mấy đứa cho hả giận đã". Nghĩ vậy chàng gật đầu bước xuống thuyền.
A Bích trịnh trọng quấn cây nhuyễn tiên lại đưa cho Quá Ngạn Chi. Ðoạn thả mái chèo xuống nước, quay thuyền bơi về hướng Tây.
Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi đưa mắt nhìn nhau mấy lần. Hai người cùng nghĩ bụng: "nay mình vào hang cọp, chưa biết sống chết ra sao. Bọn Mộ Dung thủ đoạn ác độc vô cùng. Cô bé này xem ra tuy không phải là hạng đóng kịch giả hiệu nhưng biết đâu chẳng là kế kiêu binh của chúng để mình phóng tâm không đề phòng cho chúng dễ bề hạ thủ?". Thuyền đi vòng vèo vài khúc quanh thì đến cái hồ lớn rộng bát ngát, mông mênh những nước cùng trời. Quá Ngạn Chi chột dạ nghĩ thầm: "cái hồ này có lẽ là Thái Hồ đây. Mình cùng Thôi sư thúc đều không quen bơi lội, thuyền chỉ lật đi một cái thời mình đành làm mồi cho cá, còn đâu nữa mà báo cừu cho sư phụ?".
Thôi Bách Kế cũng tưởng đến chỗ đó tự nhủ: "giả tỷ mình cầm mái chèo trong tay thì ả này có muốn lật thuyền cũng không phải dễ",liền nói:
-Cô nương! cô để tôi bơi thuyền đỡ một lúc. Cô cứ chỉ đường cho tôi là được.
A Bích cười nói:
-Trời ơi! cháu đâu dám thế? Công tử mà biết ra sẽ trách phạt cháu về tội khinh mạn tân khách.
Thôi Bách Kế thấy nàng không chịu lại càng ra dạ ngờ vực bèn xoay chiều:
-Thật ra không dám giấu gì cô nương. Xin cô nương cho chúng tôi nghe thêm vài khúc đàn nhuyễn tiên tuyệt kỹ nữa.
A Bích cười nói:
-Tiên sinh dạy quá lời.
Thôi Bách Kế lấy cây nhuyễn tiên trong tay Quá Ngạn Chi đưa cho A Bích miệng bảo nàng gẩy đàn, tay đưa ra đón lấy mái chèo.
A Bích nói:
-Tiên sinh cho tôi mượn cả cái bàn tính nữa.
Thôi Bách Kế ngấm ngầm nghĩ bụng: "ả thu cả khí giới của bọn mình, hay là có âm mưu gì đây?". Nghĩ vậy thì nghĩ chứ không có cách nào từ chối đành cầm bàn tính đưa cho nàng.
A Bích đặt bàn tính xuống tấm ván gỗ đầu thuyền ngay trước mặt. Tay trái nàng giữ lấy chuôi nhuyễn tiên, chân phải dậm lên một đầu cho cây roi dựng thẳng lên,năm ngón tay phải vừa bật vừa vê đi vuốt lại, cây nhuyễn tiên phát ra tiếng leng keng, tuy không trong trẻo vang dội bằng tiếng đàn tỳ bà nhưng nghe cũng thành nhạc điệu giòn dã, du dương. Năm ngón tay A Bích vừa lần gẩy nhuyễn tiên vừa gẩy xen lẫn tiếng bàn tính kêu lách cách tựa hồ tiếng sắt tiếng vàng chen nhau nghe càng thêm thú vị. Giữa lúc đó đôi chim én lượn qua đầu thuyền, bay về hướng tây. Ðoàn Dự nghĩ bụng: chỗ Mộ Dung ở gọi là Yến Tử ổ chắc có nhiều chim én.
Bỗng nghe A Bích cất tiếng hát. Ðoàn Dự nghe giọng hát du dương mà lòng những bâng khuâng như say như tỉnh. Chàng lẩm bẩm một mình: "nếu mình suốt đời ở tận nơi đèo heo hút gió thì làm sao nghe được những khúc tiên nhạc
này? Công tử Mộ Dung có những ả nữ tỳ tài tình thế này tất không phải hạng tầm thường".
A Bích ca hát một hồi rồi đưa trả bàn tính cùng nhuyễn tiên cho Thôi,Quá và cười nói:
-Ðàn hát kém quá, chỉ tổ làm trò cười cho quý khách. Xin Hoắc tiên sinh quay mũi thuyền về mé tả, sắp đến nhà rồi.
Thôi Bách Kế lái mũi thuyền theo tay nàng trỏ, đi vào lạch nước đầy sen mọc.
Nếu không có A Bích trỏ nẻo thì không ai ngờ giữa chỗ lá sen chi chít lại là lối thuyền đi.
Thôi Bách Kế chèo một lúc nữa A Bích lại trỏ tay bảo:
-Ði vào nẻo trong kia!
Quãng này trên mặt nước toàn một giống hồng lăng. Nước biếc lá xanh, phong cảnh tuyệt đẹp. A Bích đưa tay ra hái ít trái hồng lăng đưa cho mọi người.
Ðoàn Dự tuy hai tay đã cử động được nhưng từ sau khi bị điểm huyệt không còn mảy may khí lực nào nữa, vỏ trái hồng lăng hơi rắn một chút mà chàng không sao bóc được.
A Bích cười nói:
-Công tử không phải là người Giang Nam, không biết bóc vỏ hồng lăng, để cháu bóc cho.
Nàng bóc luôn mấy trái đặt vào tay Ðoàn Dự. Nhân cùng thịt trái này trắng bóng và tinh khiết.
Ðoàn Dự cầm bỏ vào miệng ăn, vừa ngọt vừa thơm, chàng cười bảo A Bích:
-Mùi vị của trái thuý hồng lăng này cũng ngon ngọt như khúc hát của cô nương.
A Bích hai má ửng hồng cười nói:
-Ða tạ công tử. Ðem điệu hát ví với trái hồng lăng, nay cháu mới nghe thấy công tử nói là một.
Chưa đi hết lạch hồng lăng, A Bích lại trỏ tay cho thuyền đi ra ngả có lau sậy rậm rạp. Ðến khu này cả Cưu Ma Trí cũng phải lưu tâm nhớ lấy nẻo đi, để đề phòng lúc về biết lối mà ra. Vì chỉ trông thấy toàn một mầu lá lau, lá lăng, lá giao,lá sen rất khó phân biệt đường đi. Hơn nữa chỉ một cơn gió là các thứ hoa trên mặt nước này bay qua, lướt lại, mất hết dấu vết, dù có nhận xét kỹ càng nhưng thoáng cái cụ diện lại biến đổi khác đi.
Cưu Ma Trí, Thôi Bách Kế, Quá Ngạn Chi ba người đều để ý nhìn nhận phương pháp tìm nẻo đi của A Bích, xem nàng lấy gì làm mục tiêu nhưng chỉ thấy nàng cứ điềm nhiên hái trái hồng lăng mà chẳng cần để ý gì đến đường đi. Thuyền đến chỗ quanh, chỗ rẽ là nàng thuận miệng chỉ bảo, tựa hồ những lối dọc ngang trên mặt hồ nàng đã thuộc lòng, không cần để ý nhìn nhận nữa. Thuyền đi ngang rẽ dọc không biết bao nhiêu chỗ vào khoảng giờ mùi thì xa
xa giữa rặng liễu xanh om lộ ra một mái nhà.
A Bích nói:
-Ðến nơi rồi, hôm nay cháu làm nhọc sức Hoắc tiên sinh bơi thuyền đến quá nửa ngày.
Nàng thấy Ðoàn Dự gọi Thôi Bách Kế là Hoắc tiên sinh cũng tưởng ông ta họ Hoắc.
Thôi Bách Kế miệng cười méo mó đáp:
-Cứ được ăn hồng lăng, lại được nghe thanh ca, dù có phải bơi thuyền hàng năm cũng không biết mỏi.
A Bích vỗ tay cười nói:
-Tiên sinh muốn ăn hồng lăng cùng nghe hát thì khó gì? Cứ ở cùng tụi trên hồ này không ra nữa là được.
Thôi Bách Kế nghe A Bích nói: "cứ ở trên hồ này, không ra nữa" bất giác thất kinh, đưa mắt nhìn hồi lâu thì chỉ thấy lúc nào nàng cũng tươi cười dễ dãi, tuyệt không lộ vẻ con người tâm cơ xảo trá. Tuy nhiên Thôi vẫn không vững dạ chút
nào.
A Bích đón lấy mái chèo, gạt thuyền vào dưới bóng liễu, đến chỗ có cành cây tùng rủ xuống mặt nước. Nàng vừa buộc thuyền vào cành cây xong, chợt nghe tiếng một con chim nhỏ hót líu lo, giọng hót rất trong trẻo và vang dội.
A Bích cũng bắt chước giọng chim gáy lên vài tiếng rồi quay lại bảo mọi người:
-Xin mời quý vị lên bờ.
Mọi người lên bờ trông vào thấy lưa thưa có bốn năm căn nhà nhỏ, dựng trên một cái đảo nhỏ hay cái bán đảo thì đúng hơn. Các phòng ốc tuy bé nhỏ nhưng rất sáng sủa, xinh xắn.
Cưu Ma Trí hỏi:
-Phải chăng đây là Tham Hợp trang trong Yến Tử ổ?
A Bích lắc đầu đáp:
-Không phải! chỗ này công tử dựng lên cho cháu ở, chật hẹp, quê mùa không đáng để tiếp khách. Ðại sư bảo vào tế mồ Mộ Dung tiên sinh, tôi đâu dám tác chủ,chẳng qua thỉnh quý vị vào đây ngồi chờ, để cháu nói cho A Châu tỷ nương hay.
Cưu Ma Trí có vẻ không bằng lòng, nét mặt lầm lỳ. Cưu Ma Trí là một vị hộ quốc pháp vương nước Thổ Phồn, địa vị cao sang là thế. Phi chỉ quốc vương nước Thổ Phồn đem lòng kính trọng, mà sang đến triều đình nước Ðại Tống hay các nước Ðại Lý, Liêu Quốc các vị vua chúa cũng tiếp đãi lão vào hàng thượng khách.
Huống chi lão là bạn cố tri với Mộ Dung tiên sinh, vì tình nghĩa mà thân hành đến tế mộ. Công tử Mộ Dung vắng nhà không biết đã đành còn những người ở nhà cũng không mời lão vào đại sảnh, tiếp đãi long trọng, lại để cho con thị tỳ đưa vào nhà riêng, thực là đáng giận. Nhưng lão thấy A Bích luôn miệng tươi cười, tuyệt không tỏ vẻ khinh mạn thì nghĩ rằng: "Nó là con ăn con ở, có hiểu gì đâu mà mình đem đặt nó vào địa vị người có kiến thức?". Nghĩ vậy lão trở lại nét mặt ôn hoà vui tươi.
Thôi Bách Kế hỏi:
-A Châu tỷ nương là ai?
A Bích cười đáp bằng một giọng ngây thơ:
-A Châu tỷ nương là A Châu tỷ nương! vì chị A Châu lớn hơn cháu một tháng nên cháu kêu bằng A Châu tỷ nương chứ biết sao được? Ai bảo chị lớn hơn cháu một tháng làm gì? Như tiên sinh thì cần gì phải gọi A Châu là tỷ nương? nhưng nếu cứ gọi A Châu tỷ nương thì chị ta cũng khoái lắm.
Nàng nói liến láu một hồi, giọng nói trong trẻo như người tấu nhạc rồi dẫn bốn người vào trong nhà. Ðoàn Dự nhìn lên thấy trên cửa căn nhà nhỏ có tấm biển viết hai chữ "cầm vân", nét chữ rất tốt. A Bích mời mọi người ngồi chơi. Một lát có gã con trai bưng trà và bánh điểm tâm ra.
Ðoàn Dự vừa cầm chén trà thì một mùi thơm ngát đưa lên mũi. Chàng thấy nước trà màu xanh lạt, cánh trà mầu xanh biếc,nhỏ như hạt châu, trên mặt lá có lông nhỏ li ti. Thứ trà này chàng chưa thấy bao giờ. Chàng vừa nhấp thử một hớp, miệng đượm mùi thơm, lưỡi dơm dớp vị ngọt.
Cưu Ma Trí và Thôi Bách Kế thấy lá trà kỳ dị không dám uống. (Nguyên thứ trà này là đặc sản ở miền phụ cận Thái Hồ, đời sau gọi là trà Bích La Xuân. Bấy giờ về đời Bắc Tống, chưa có cái tên thanh nhã này.) Cưu Ma Trí ở khu Tây Vực và cư trú tại miền rừng núi nước Thổ Phồn, chỉ quen uống trà sắc đen, vị chát, giờ thấy thứ trà sắc xanh biếc, có lông ngờ là có chất độc.
Bốn thứ điểm tâm là mứt mai côi, bánh dẻo phục linh, bánh nướng Phi Thuỷ và bột ngó sen. Thứ nào cũng chế rất công phu, tựa hồ như làm để bày cho đẹp chứ không phải để ăn. Ðoàn Dự khen nức nở rồi hỏi:
-Những món điểm tâm coi đẹp thế này mà bỏ vào miệng ăn đi thì uổng quá phải không cô nương?
A Bích nói:
-Mời công tử dùng đi! Trong nhà hãy còn.
Ðoàn Dự ăn đến đâu lại trầm trồ khen ngợi đến đó. Cưu Ma Trí và Thôi Bách Kế cùng Quá Ngạn Chi không dám ăn. Ðoàn Dự thấy vậy trong lòng sinh nghi tự hỏi: "Cưu Ma Trí tự xưng là bạn thân với Mộ Dung tiên sinh vậy mà sao chỗ nào lão cũng gia tâm đề phòng? Nhà Mộ Dung đối đãi với lão tựa hồ không có vẻ trịnh trọng là nghĩa gì?
Cưu Ma Trí thật là người rất nhẫn nại, lão đợi đến nửa ngày chờ sau khi Ðoàn Dự đã uống trà và ăn điểm tâm đủ thứ mới cất tiếng giục A Bích:
-Bây giờ xin cô nương đi mời A Châu cô nương đến cho!
A Bích cười đáp:
-Trại chị A Châu ở cách đây xa tới bốn chín đường thuỷ, bữa nay đi không kịp mất rồi. Mời bốn vị hãy ở lại đây một đêm, sáng sớm mai cháu sẽ đưa quý vị sang "thính hương tiểu trúc".
Thôi Bách Kế hỏi:
-Bốn chín đường thuỷ là nghĩa làm sao?
A Bích đáp:
-Một chín là 9 dặm, hai chín là 18 dặm, bốn chín là 36 dặm.
Nguyên một giải Giang Nam tính lộ trình từng 9 dặm một.
Cưu Ma Trí lại nói:
-Giá biết thế này thì cô nương đưa chúng tôi đến thẳng Thính hương tiểu trúc có phải hay hơn không?
A Bích cười đáp:
-Cháu ở đây một mình không có ai trò chuyện, buồn chết đi được. Chẳng mấy khi có quý khách đến chơi, thế nào cũng lưu quý vị ở lại đây một hôm.
Từ hồi nào tới giờ Quá Ngạn Chi chỉ ngồi lầm lỳ không nói câu gì, đột nhiên đứng phắt dậy, quát hỏi:
-Thân nhân nhà Mộ Dung trú ngụ nơi đâu? Quá Ngạn Chi này đến Tham Hợp trang không phải để ăn cơm, uống nước cũng không phải để gẫu chuyện giải buồn cho ai đâu nhé. Ta đến để giết người báo thù, để đổ máu cùng gây án mạng. Quá mỗ đã vào trong này, cô nương đi bảo chúng hay, ta đây là đệ tử Kha Bách Tuế phái Tung Sơn đến đòi món nợ máu của sư phụ ta.
Nói xong cầm cây nhuyễn tiên đập mạnh làm cho chiếc kỷ trà gỗ đàn hương cùng cái ghế bằng thứ trúc Tương Phi gẫy ra từng mảnh.
A Bích không sợ hãi mà cũng không tức giận nàng nói:
-Các vị anh hùng hào kiệt đến chơi với Mộ Dung công tử mỗi tháng mấy lần,cũng đã nhiều vị hùng hùng hổ hổ như Quá đại gia đây...
Nàng chưa dứt lời, chợt thấy một lão già nhỏ bé thấp lủn thủn, đầu tóc bạc phơ chống gậy từ hậu đường đi ra hỏi:
-A Bích! Ai làm gì mà ầm lên thế?
Thôi Bách Kế đang ngồi ghế cũng nhảy vọt ra, đứng bên Quá Ngạn Chi quát hỏi:
-Sư huynh ta là Kha Bách Tuế bị ai sát hại? Nói mau!
Ðoàn Dự thấy lão già lưng còng, mặt mũi dăn deo chừng tám chín chục tuổi nói ấp úng trong cổ họng:
-Kha Bách Tuế, Kha Bách Tuế ư? đã thọ đến Bách Tuế thì chết là đáng đời rồi còn gì?
Từ lúc Quá Ngạn Chi đến Tô Châu, tưởng đến thẳng nhà Mộ Dung chém giết để báo thù cho ân sư nào ngờ gặp phải Cưu Ma Trí đoạt khí giới, mất hết nhuệ khí,
đang bực mình thì lại gặp A Bích, một cô gái rất hiền hoà khả ái, bao nhiêu thù oán không phát tiết vào đâu được nên giờ vừa nghe lão già ăn nói ỡm ờ, vô lễ liền vung roi nhằm hậu tâm lão quất xuống.
Chàng sợ Cưu Ma Trí ra tay can thiệp nên thấy Cưu ngồi đầu đằng tây liền giơ roi về phía đông quất tới. Nào ngờ Cưu Ma Trí vươn tay ra, bàn tay lão tựa hồ có đá nam châm, lão ngồi xa mà chụp được nhuyễn tiên nói:
-Quá đại hiệp! Chúng ta là khách phương xa đến, lấy lời lẽ dàn xếp với nhau là hơn, hà tất phải dùng đến võ lực?
Ðoạn lão cuộn cây nhuyễn tiên lại, trao trả cho Quá Ngạn Chi. Quá Ngạn Chi thẹn mặt đỏ bừng, đón lấy roi thì tức mình mà không đón lấy cũng không tiện. Sau cùng nghĩ bụng: "mình đến đây cốt để báo thù là việc lớn, hãy tạm nhẫn nhục trong nhất thời rồi sẽ liệu sau". Nghĩ vậy chàng đưa tay ra đón lấy cây roi.
Cưu Ma Trí hỏi lão già:
-Tôn tính đại danh thí chủ là gì? Là người thân thích hay bạn hữu với Mộ Dung tiên sinh?
Lão già toét miệng ra cười đáp:
-Già này là lão bộc của công tử Mộ Dung, làm gì có tôn tánh đại danh? Già nghe nói đại sư là bạn thân với cố chủ nhận, vậy người có điều chi dạy bảo?
Cưu Ma Trí nói:
-Bần tăng cần gặp Mộ Dung công tử để trình bày.
Lão già đáp:
-Thế thì không may rồi! Công tử tôi mới ra đi hôm kia, không chừng một hai ngày nữa mới về.
Cưu Ma Trí lại hỏi:
-Công tử đi chơi đâu?
Lão già nghiêng đầu, nghẹo cổ, đưa ngón tay lên gõ trán rồi nói:
-Tôi tuổi già lẫn lộn, không nhớ được rành mạch, dường như công tử sang Tây Hạ hay Liêu Quốc gì đó, mà không chừng còn qua Thổ Phồn, Ðại Lý cũng nên.
Cưu Ma Trí hứ một tiếng, tỏ vẻ không bằng lòng vì lão già ấm ớ, chỉ trừ có Ðại Tống là không còn bốn nước thuộc hạt lão nói hết. Cưu lại biết rõ lão già này giả bộ ngớ ngẩn liền nói tiếp:
-Ðã vậy thì bần tăng không thể chờ công tử được, nhờ quản gia đưa bần tăng đến tế mồ Mộ Dung tiên sinh cho tận tình cố nhân.
Lão già khua tay rối lên nói:
-Việc này tôi không thể tác chủ được đâu, tôi cũng không phải là quản gia, quản giếc chi cả.
Cưu Ma Trí lại hỏi:
-Vậy ai là quản gia tôn phủ? Xin mời ra đây nói chuyện?
Lão già gật đầu luôn mấy cái nói:
-Ðược thế thì được lắm! Tôi xin mời quản gia đến.
Lão trở gót người run lẩy bẩy đi ra, vừa đi vừa càu nhàu: "Cha này đáo để thật!
Trên đời chẳng có việc ác nào là lão từ, lại giả bộ thầy tu. Mình đã ngần này tuổi đầu còn lạ gì trò hề mà lão toan bịp cả mình nữa mới đáng ghét".
Ðoàn Dự nghe lão nói bật lên tiếng cười khanh khách. A Bích vội quay sang nói với Cưu Ma Trí:
-Xin đại sư phụ đừng giận, Hoàng lão bá có tính lẩn thẩn lại phải cái tật là tự cho mình thông minh hiểu đời, ai cũng chê bai.
Thôi Bách Kế kéo áo Quá Ngạn Chi ra một chỗ khẽ bảo:
-Cái thằng trọc tự xưng là bạn với Mộ Dung tiên sinh kia, sao nhà này không thấy ai tiếp đãi y một cách trọng vọng? Hiền điệt đừng có xung khắc với lão, phải để ý xem sao rồi sẽ liệu.
Quá Ngạn Chi vâng lời về lại chỗ ngồi. Nhưng cái ghế dành cho chàng đã bị đập gẫy nát rồi, thành ra phải đứng. A Bích vội bê cái ghế nàng đang ngồi lại, tươi cười nói:
-Mời Quá đại gia ngồi đây.
Quá Ngạn Chi gật đầu, chàng tự nhủ: "giả tỷ mình vào đây, có giết hết cả nhà Mộ Dung, cũng nên tha cho con nhỏ này".
Từ lúc lão bộc họ Hoàng ra nhà khách, Ðoàn Dự cảm thấy trong lòng thắc mắc,hình như có điều chi lệch lạc, không ăn nhập với nhau trong hoàn cảnh chỗ này mà chàng nghĩ mãi không ra. Chàng hết nhìn cái phòng khách nhỏ bé cùng đồ cần thiết trong nhà, lại nhìn mấy bức hoạ treo trên vách, các khóm hoa ngoài sân rồi chàng lại nhìn A Bích, Cưu Ma Trí, Thôi Bách Kế, Quá Ngạn Chi mà không sao tìm ra cái trạng thái mỗi lúc chàng càng cảm thấy kỳ dị hơn.
Ðoàn Dự còn đang nghĩ ngợi phân vân, bỗng nghe thấy tiếng chân người rồi từ trong nhà đi ra một ông già trạc ngoại ngũ tuần, người ốm o, nước da vàng vọt, dưới cằm có một túm râu ngắn như râu dê nhưng vẻ mặt tinh lanh mẫn cán, cách phục sức rõ ra một tên quản gia trong phủ Mộ Dung.
Gã gầy nhom quay mặt về phía Cưu Ma Trí cùng mọi người thi lễ nói:
-Tiểu nhân là Tôn Tam xin bái kiến liệt vị. Thưa đại sư phụ! Nay người có thịnh ý đến tế mồ Mộ Dung lão gia chúng tôi cảm kích vô cùng. Song công tử chúng tôi vắng nhà, không ai đáp lễ sao cho phải đạo kính khách. Vậy chờ công tử về, tiểu nhân sẽ đem thịnh ý của đại sư phụ trình lại công tử là đủ...
Gã vừa nói đến đây thì mũi Ðoàn Dự bỗng thoáng ngửi thấy một mùi hương thoang thoảng, chàng chợt nghĩ ra điều gì tự hỏi: "chẳng lẽ lại thế ư?".
Nguyên lúc nãy người lão bộc họ Hoàng đến, Ðoàn Dự cũng đã ngửi thấy một mùi hương u nhã. Mùi hương này cũng phảng phất như mùi hương trong người Mộc Uyển Thanh tiết ra. Tuy có chỗ khác nhau thật song lại vẫn là mùi hương của thiếu nữ. Thoạt tiên thì chàng cho là mùi hương ở mình A Bích tiết ra nên không để ý.
Thế rồi sau khi lão bộc ra khỏi nhà khách, mùi hương đó tự nhiên đi đâu mất. Ðoàn Dự sở dĩ thắc mắc mãi là ở điểm này: có lý đâu một ông già tám chín chục tuổi đầu lại còn tiết ra một mùi hương của cô gái mười tám đôi mươi. Bây giờ gã gầy nhom tự xưng là Tôn Tam này vừa vào, chàng lại ngửi thấy mùi hương ban nãy. Trong bụng suy nghĩ lung lắm, bao nhiêu câu hỏi xoay lộn trong óc: phải chăng phía sau nhà khách có thứ kỳ hoa, dị thảo gì nên mỗi khi người ở nhà trong đi ra lại quyện lấy mùi hương này đi theo, khiến người ngửi phải mê mẩn tâm thần? Nếu không đúng thế thì cả lão bộc già nua kia lẫn quản gia gầy nhom này đều do một thiếu nữ đóng vai. Mùi hương tuy làm cho Ðoàn Dự sinh nghi nhưng nó rất đạm bạc, nó rất vi tế, phải là cái mũi đặc biệt của Ðoàn Dự mới ngửi thấy còn Cưu Ma Trí, Thôi Thiên
Bách Kế và Quá Ngạn Chi thì không hay biết gì hết. Sở dĩ Ðoàn Dự có được cái mũi thần tình như thế là vì chàng đã bị giam cầm trong thạch thất với Mộc Uyển Thanh. Trải qua một thời gian cực kỳ nguy hiểm mũi chàng quen thuộc với mùi
hương của nàng. Có thể nói là chàng đã khắc xương ghi dạ cái mùi hương thiếu nữ tiết ra. Ðối với cái mũi của chàng, mùi hương này mạnh hơn cả cái thơm của gỗ đàn hương hay của bách hoa.
Ðoàn Dự tuy nghi Tôn Tam là thiếu nữ hoá trang, song chàng ngó lui, ngó tới mà không sao khám phá ra được. Gã Tôn Tam cũng rất thần tình, từ tướng mạo cho đến cử chỉ, nói năng hoàn toàn ra vẻ đàn ông, không có kẽ hở mảy may nào để lộ chân tướng. Sau chàng chợt nghĩ ra: Gái giả trai muốn giỏi đến đâu thì giỏi cũng không thể nào giả ra được cái bìu cổ họng. Thế rồi chàng cứ nhè chỗ cổ họng Tôn Tam để khám phá... Nhưng gã đã khôn ngoan để chùm râu dê rủ xuống che khuất cái bìu đi, không sao mà nhìn thấy được.
Chàng liền đứng dậy, giả vờ xem những chữ treo trên vách, rồi lại gần bên Tôn Tam, ghé mắt trông vào chỗ bìu cổ, quả cổ phẳng lỳ không có tật nổi lên, rồi thì chàng lại nhìn xuống thấy bộ ngực gồ lên.
Tuy chưa chắc đã là ngực đàn bà nhưng đã trông nét mặt gầy đét của gã đàn ông thì quyết nhiên ngực không thể đầy thế được. Ðoàn Dự khám phá ra điều bí mật này, chẳng lấy làm thú vị, lẩm bẩm: vai trò vẫn còn dài, chưa hết. Thử xem cô ả diễn xuất ra sao?
Bỗng thấy Cưu Ma Trí thở dài nói với Tôn Tam:
-Bần tăng gặp quý chủ nhân hồi ở bên Thiên Trúc có bàn đến võ nghệ rồi cùng nhau ý hợp tâm đầu, kết bạn tâm giao. Ai ngờ trời chẳng cho thọ, để mình kẻ phàm phu tục tử này sống trộm ở đời, còn quý chủ nhân vội về thế giới cực lạc. Bần tăng lặn lội từ nước Thổ Phồn xuống đến Trung Nguyên chẳng qua vì tình bạn hữu thâm trọng, cốt sao được lạy trước mộ một lạy còn có người đáp lễ hay không phỏng có chi là quan hệ? Phiền quản gia dẫn bần tăng đến nơi là được.
Tôn Tam chau mày ra chiều suy nghĩ, gã ngập ngừng:
-Việc này... việc này...
Cưu Ma Trí ngắt lời:
-Nếu có điều chi nan giải, xin nói rõ cho biết!
Tôn Tam nói:
-Ðại sư phụ là chỗ thâm giao với lão gia tiểu nhân, hẳn biết rõ tính người lúc sanh thời. Lão gia tiểu nhân ghét cay, ghét đắng bất luận là ai đến thăm người.
Người thường bảo: những bọn đến đây chẳng là hạng tới sinh sự báo thù thì lại là kẻ đến tầm sư học nghệ, dưới nữa là phường đến vay mượn, hoặc thừa cơ đục nước buông câu, nhân lúc lộn xộn chẳng dắt trộm cừu cũng khuân đồ vật. Người còn nói:
đám sư mõ đến lại càng khó chịu... Chết rồi... khó nói quá...
Gã nói đến đây tựa hồ như người buột miệng lỡ lời xúc phạm đến Cưu Ma Trí,vội giơ tay lên bịt miệng. Những cử chỉ càng rõ ra vẻ một thiếu nữ, mắt tròn xinh xinh và con ngươi đen láy. Tuy gã vội chớp mắt, rủ lông mày xuống che đi nhưng làm sao dấu nổi Ðoàn Dự đang lưu tâm dò xét. Chàng thấy nàng bại lộ cơ quan,bất giác cả mừng lẩm bẩm: Gã Tôn Tam phi chỉ là đàn bà mà còn là một vị nữ lang đang độ xuân xanh. Chàng liếc nhìn A Bích thì khoé hạnh cô này đang nở một nụ cười ranh mãnh. Chàng không còn nghi ngờ gì nữa, nghĩ thầm: "Cả gã Tôn Tam này cho chí lão già họ Hoàng lúc nãy chỉ là một người, chưa biết chừng chính là A Châu tỷ nương".
Cưu Ma Trí vẫn giữ một bộ mặt từ bi than rằng:
-Người đời gian trá thì nhiều mà thật thà thì ít, Mộ Dung tiên sinh không muốn giao kết với người phàm tục là phải lắm.
Tôn Tam nói:
-Quả vậy! Lão gia tiểu nhân có di ngôn rằng bất luận kẻ nào đến xin viếng mồ quét mả, nhất thiết không cho vào. Thậm chí người còn bảo: mấy thằng cha trọc,đa số không phải vì hảo tâm mà đến, chúng chỉ có ý muốn quật mả ta lên mà thôi.
Trời ơi! Ðại sư phụ đừng phiền, lão gia tiểu nhân thoá mạ thằng trọc là thoá mạ người ta kia, không phải có ý mạt sát sư phụ đâu.
Ðoàn Dự nghe nói phải cười thầm: ai đời lại trước mặt nhà sư mà thoá mạ thằng trọc bao giờ? Rồi chàng lại nghĩ: lão Cưu Ma Trí này bị người thoá mạ đến thế mà y vẫn bình tĩnh được, tuyệt không lộ vẻ cáu giận chút nào. Lão là con người đại gian đại ác phi thường mới giữ được thái độ này.
Cưu Ma Trí nói:
-Quý chủ nhân di ngôn lại mấy câu đó rất có lý. Vì hồi sinh thời ông uy danh lừng lẫy khắp thiên hạ, do đó mà dễ kết mối thâm cừu rất nhiều. Còn sống họ không làm gì được nên ông chết rồi tất họ cố tình tìm đến động chạm vào di thể
ông để trả thù đó là một điều dĩ nhiên.
Về Đầu Trang Go down
Oz Vessalius
Tướng Quân
Tướng Quân
Oz Vessalius

Tổng số bài gửi : 95
Điểm Thưởng : 5149
Độ Tin Tưởng : 104
Join date : 05/01/2011

Thiên Long Bát Bộ - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ   Thiên Long Bát Bộ - Page 2 I_icon_minitimeThu Jan 06, 2011 5:27 pm

Hồi 28

Tài Cải Trang Tỏ Mặt Gái Cô Tô
Tôn Tam đáp:
-Muốn động đến di thể lão gia tiểu nhân ư? Ha ha! Cái đó thì đừng hòng.
Cưu MaTrí nói:
-Tôi với Mộ Dung tiên sinh vốn là chỗ tri giao, nên tôi chỉ cốt đến viếng mộ thôi, ngoài ra không có ý gì khác, quản gia bất tất phải đa nghi?
Tôn Tam vẫn cương quyết đáp:
-Thực ra việc này tiểu nhân không thể tự chủ được. Nếu làm trái với lời di ngôn của lão gia, khi công tử về tra hỏi ra sẽ đánh tiểu nhân gãy cẳng mất. Thôi để tiểu nhân hỏi ý kiến lão thái thái xem sao, rồi sẽ trả lời.
Cưu Ma Trí hỏi:
-Lão thái thái là ai?
Tôn Tam đáp:
-Là thúc mẫu lão gia tiểu nhân. Các bạn hữu của lão gia mỗi khi tới đây vào chào lão thái thái đều phải cúi đầu lạy. Khi công tử vắng nhà thì mọi việc đều phải lĩnh ý lão thái thái.
Cưu Ma Trí nói:
-Như thế càng hay! Nhờ quản gia vào bẩm với lão thái thái là có Cưu Ma Trí ở nước Thổ Phồn tới thăm.
Tôn Tam đáp:
-Ông khách khí quá, chúng tôi không dám.
Khi Tôn Tam quay vào nhà trong rồi, Ðoàn Dự ngẫm nghĩ: "cô gái này thật là tinh quái. Không hiểu cô ta trêu cợt Cưu Ma Trí với dụng ý gì?".
Ðược một lúc văng vẳng có tiếng hòan hội leng keng, một bà già từ trong nội đường đi ra, người chưa tới mà mùi hương đã thoang thoảng đưa vào mũi Ðoàn Dự.
Ðoàn Dự không nhịn cười được. Lần này chàng nhận rõ đó là một thiếu nữ hoá trang thành bà lão,mình mặc áo đoạn màu da đồng, cổ tay đeo vòng ngọc, cách phục sức rất sang trọng, trên má có nhiều vết nhăn, mặt mũi kèm nhèm, tựa hồ như không trông rõ gì hết.
Ðoàn Dự trong bụng không khỏi khen thầm: cô bé này hoá trang giỏi tuyệt, trá hình ai ra người ấy, khó mà khám phá ra được. Tài nhất là chỉ trong khoảnh khắc nàng đã cải trang xong, chân tay mau lẹ đến cực điểm.
Bà già tay chống gậy, người run lẩy bẩy tiến ra tới nhà ngoài liền hỏi:
-A Bích! Bạn của lão gia mi đã tới đấy ư? Sao không thấy bái kiến ta?
Mụ nghiêng đầu nhìn bên đông lại nghẹo cổ ngó bên tây, hai mắt như bị quáng loà, không nhận ra người nào ở chỗ nào. A Bích quay sang Cưu Ma Trí, khoa tay làm hiệu và khẽ nói:
-Hòa thượng mau mau dập đầu bái kiến đi! lão thái thái mà vừa lòng thì muốn yêu cầu việc gì cũng được hết.
Bà già nghiêng đầu, đưa bàn tay lên, kéo vành tai lại tựa hồ để nghe cho rõ rồi lớn tiếng hỏi:
-Con ranh con! Mi nói cái gì vậy? Người ta đã cúi đầu lạy chưa?
Cưu Ma Trí bèn lên tiếng:
-Lão phu nhân mạnh giỏi! Tiểu tăng xin thi lễ.
Ðoạn chắp tay xá dài, kình lực từ hai bàn tay phát ra, đập xuống thềm gạch kêu "binh binh" nghe tựa như là tiếng dập đầu xuống đất lạy.
Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi đưa mắt nhìn nhau và phập phòng lo sợ: lão sư này nội lực mạnh đến thế, e rằng khó lòng đấu nổi với lão được một đòn.
Bà già gật gù thủng thẳng nói:
-Ngán cho cái thế giới này! Kẻ gian trá thì nhiều, người thực thà thì ít. Ngay một việc cúi đầu lạy còn có đứa tồi tệ, dở tuồng ranh mãnh giả dối, rành rành nó không sụp lạy mà nó làm trò cho dưới đất phát ra tiếng kêu tựa hồ như tiếng đập đầu xuống thềm. Nó khinh ta không nhìn thấy gì mà! Ðể xem ta có khen nó ngoan, nó giỏi, sụp đầu lạy vang lên những tiếng "bốp bốp".
Ðoàn Dự không nhịn được, phì ra một tiếng cười lí nhí.
Bà già từ từ quay đầu lại hỏi:
-A Bích! Ðứa nào hư hỗn, vô ý thế hử?
Bà vừa nói vừa đưa tay lên bưng mũi. A Bích bật cười nói:
-Thưa lão thái thái! không phải cái trò bất lịch sự đâu. Ðoàn công tử phì ra tiếng cười trong cổ họng đấy ạ.
Bà già làm bộ nghễnh ngãng, nghe không ra hỏi lại:
-"Ðoạn" gì? Làm sao mà đoạn? Cái gì đứt đoạn?
A Bích đáp:
-Không phải đoạn. Người ta họ Ðoàn, công tử họ Ðoàn.
Bà già gật đầu nói tiếp:
-Chà! Công tử gì mà lắm thế? Mi nhớ công tử của mi lắm nhỉ!
A Bích đỏ mặt đáp:
-Lão phu nhân cũng mong nhớ công tử hoài đấy thôi.
Bà già lại hỏi:
-Mi... mi nói cái gì? Công tử muốn ăn dưa hấu ư?
A Bích bĩu môi cười đáp:
-Vâng! công tử muốn ăn dưa hấu, đồng thời muốn ăn cả anh đào nữa.
Ðoàn Dự nghe hai người nói nói cười cười mà câu nào cũng có thêm nghĩa bóng nữa. Càng nghe càng thấy rõ người giả dạng bà già này đúng là một cô gái khác cải trang.
Bà già đó quay sang hỏi Ðoàn Dự:
-Thằng lỏi này! Sao thấy lão thái thái lại không cúi đầu lạy?
Ðoàn Dự nói lảng sang chuyện khác:
-Lão thái thái! tại hạ có câu chuyện riêng muốn thưa cùng lão thái thái nhưng cần phải giữ kín, không thể để cho người thứ hai nghe được.
Bà già quay đầu lại hỏi:
-Mi bảo sao?
Ðoàn Dự ghé tai nói nhỏ với bà lão:
-Tại hạ có một đứa cháu gái tên gọi A Châu dặn bảo: Y có câu chuyện khẩn yếu cần trình lão thái thái trong phủ Mộ Dung.
Bà già đó lắc đầu lia lịa đáp:
-Không được nói nhảm, nói láo.
Ðoàn Dự mỉm cười nói tiếp:
-Con cháu A Châu quả là đứa hay nói nhảm, nói láo, lại ưa hoá trang, chơi cái trò con khỉ con hươu, nay giả dạng đàn ông, mai lại giả dạng đàn bà, nó còn biết cả nghề đóng kịch nữa. Mỗi khi tôi bắt được đánh cho bết đít mà vẫn không chừa.
Bà già này chính là A Châu, một ả nha hoàn khác trong phủ Mộ Dung hoá trang.
Thuật hoá trang của nàng khéo nhất trần gian, chẳng những về dung mạo, mà về ngôn ngữ, cử chỉ, giọng nói điệu cười nhất nhất giống như in. Có thể nói không sơ hở chút nào để người khám phá ra được. Chả thế mà thông minh giảo quyệt như Cưu Ma Trí, lão luyện giang hồ như Thôi Bách Kế cũng đều tin là thực chứ không mảy may nghi ngờ. Ai ngờ Ðoàn Dự lại phát giác ra được chân tướng của nàng nhờ ở cái mùi hương thoang thoảng êm dịu từ trong người nàng tiết ra mà nàng vô phương che dấu.
Nghe Ðoàn Dự nói A Châu giật mình. Song nàng trấn tĩnh được ngay không hề thay đổi sắc mặt vẫn giữ bộ dạng già nua, mắt mờ tai điếc, nàng nói bóng với Ðoàn Dự:
-Ừ thằng nhỏ tinh khôn lắm, thực là một đứa thông minh tuyệt trần. Trên đời này ta chưa thấy đứa nhỏ nào tinh khôn được thế. Mi phải khôn ngoan giữ mồm giữ miệng, bà thương yêu đặc biệt nghe!
Ðoàn Dự nghe lời nàng biết nàng có ý khuyên chàng đừng tiết lộ hành tông của nàng, để nàng đối phó với thằng giặc Cưu Ma Trí. Chính chàng cũng cần nàng giúp sức để thoát hiểm thế thì nàng đối với chàng là bạn chứ không phải là thù nên chàng đáp:
-Xin lão thái thái cứ yên tâm! Tại hạ đã tới tôn phủ thì nhất thiết mọi điều đều tuỳ ở nơi lão thái thái xếp đặt.
A Châu ưa đóng kịch, nàng nói tiếp:
-Mi có biết nghe lời ta mới là đứa trẻ ngoan ngoãn. Trước hết hãy cúi đầu lạy ta ba lạy đi đã! Ta sẽ nhất quyết không để thiệt cho mi đâu.
Ðoàn Dự ngẩn người ra và tự nghĩ: "ta đường đường là một vị thế tử con Trấn Nam Vương ở nước Ðại Lý, lẽ nào lại lạy một ả nữ tỳ?".
A Châu thấy Ðoàn Dự có vẻ lúng túng, nàng cười khà khà nói tiếp:
-Có kẻ chết đến sau gáy mà còn tự cao, tự đại. Thằng nhỏ ngoan! Ta bảo mi, mi hãy lạy lão nương mấy lạy đi nào!
Ðoàn Dự quay đầu sang bên chợt thấy A Bích nhếch mép tủm tỉm cười ranh mãnh liếc mắt nhìn chàng, nước da trắng mịn như nhân trái hồng lăng mới bóc vỏ,ở bên mép có một nốt ruồi nhỏ lại càng tăng thêm vẻ kiều mỵ khiến lòng chàng
rung động, cất tiếng hỏi:
-A Bích tỷ nương! nghe nói trong tôn phủ còn có chị A Châu tỷ nương, nàng có mỹ miều nhuần nhã như tỷ nương không?
A Bích mỉm cười đáp:
-Trời ơi! Tôi xấu như ma lem có chi đáng kể? Chị A Châu mà nghe thấy công tử hỏi thế tất giận lắm đó. Tôi đâu dám bì với chị A Châu, chị còn tuấn tú gấp mười tôi.
Ðoàn Dự hỏi lại:
-Quả vậy ư?
A Bích đáp:
-Tôi nói dối công tử làm gì?
Ðoàn Dự lắc đầu hoài nghi:
-Ðẹp gấp mười chị? Trên đời này làm gì có người như vậy? Trừ phi là... là nàng tiên ở trong thạch động kia thôi, còn người thì đẹp xuýt soát như chị cũng đã là hiếm có lắm rồi.
A Bích hai má ửng hồng có vẻ thẹn thùng, nàng nói:
-Lão thái thái bảo anh cúi đầu lạy chứ ai bảo anh tán róc lấy lòng tôi.
Ðoàn Dự lại hỏi:
-Lão phu nhân lúc đương thì chắc cũng là một vị tuyệt sắc giai nhân nghiêng nước, nghiêng thành đấy nhỉ. Nói thực ra, lão thái thái đối với tôi tốt hay không chưa biết nhưng Ðoàn Dự này vẫn chưa có một ấn tượng gì ở trong lòng. Có điều
cúi lạy một vị tuyệt thế giai nhân thì tôi rất cam tâm.
Nói xong quỳ gối xuống liền và nghĩ thầm: "Ta đã lạy thì phải dập đầu cho thật kêu. Trước mình lạy pho ngọc tượng trong động hàng nghìn lạy còn được thì nay có lạy người đẹp đất Giang Nam ba lạy đã ăn thua gì?". Thế rồi chàng dập đầu xuống đất kêu "kịch kịch kịch" ba tiếng.
A Châu rất hài lòng nghĩ thầm: "Ðoàn công tử biết rõ ta là một đứa nha hoàn mà công nhiên chịu cúi đầu lạy, thật là hiếm có".
Nàng khen:
-Thằng nhỏ ngoan lắm! Tốt lắm! Tiếc rằng ta không đem tiền kiến diện... để thưởng cho mi.
A Bích nói xen vào:
-Lão thái thái đừng quên là được rồi. Lần sau sẽ bù cho người ta cũng thế.
A Châu đưa mắt nguýt A Bích rồi quay sang nói với Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi:
-Còn hai vị khách này tại sao không cúi đầu lạy, làm lễ bái kiến ta?
Quá Ngạn Chi hứ một tiếng và hỏi một cách sống sượng:
-Mụ có biết võ nghệ hay không?
A Châu ra vẻ nghễnh ngãng chưa nghe rõ, hỏi lại:
-Ngươi bảo sao?
Quá Ngạn Chi nhắc lại:
-Ta hỏi mụ có biết võ nghệ không? nếu là người võ công cao cường thì Quá Ngạn Chi này tình nguyện lãnh cái chết ở dưới tay Mộ Dung lão thái thái, còn nếu không phải là nhân vật trong võ lâm thì ta bất tất nhiều lời với mụ làm gì?
A Châu vờ nhãng tai nghe "võ công cao cường" ra "ngô công bách cước" nàng lắc đầu đánh trống lảng:
-Ngươi bảo "ngô công bách cước" chi chi đó, ta xem chừng ngươi say mất rồi.
Con rết trăm chân thì đâu mà chẳng có nó cắn người đau lắm đấy.
A Châu lại quay sang hỏi Cưu Ma Trí:
-Còn đại hòa thượng! Nghe nói mi muốn quật mả Mộ Dung tiên sinh lên, định lấy trộm bảo bối phải không?
Cưu Ma Trí tuy không ngờ mụ là thiếu nữ hoá trang nhưng cũng biết là mụ giả điếc, giả ngây, quyết không phải là một bà già đã đến mức lẫn lộn như thế nên lão vẫn dè dặt và nghĩ thầm trong bụng: "Mộ Dung tiên sinh đã giỏi như thế thì bậc tiền bối tiên sinh tất nhiên không phải hạng bản lãnh tầm thường". Lão liền vờ như không nghe rõ hai chữ "quật mả" bèn đáp:
-Tiểu tăng cùng Mộ Dung tiên sinh là chỗ bạn tri giao, được nghe tin buồn tiên sinh tạ thế nên lặn lội từ nước Thổ Phồn đến đây với mục đích duy nhất là kính bái trước linh vị Mộ Dung tiên sinh mà thôi. Tiểu tăng có một điều ước hẹn với tiên sinh từ lúc sinh tiền là lấy được quyển đồ hoạ Lục Mạch Thần Kiếm đưa cho tiên sinh xem. Lời ước đó không thực hành được, tiểu tăng rất lấy làm hổ thẹn.
A Châu nghe đến chữ "Lục Mạch Thần Kiếm" không khỏi giật mình, nàng cũng biết đó là một môn võ công siêu việt, gần đây chính nàng cũng được nghe công tử nhắc tới.
A Châu và A Bích đưa mắt nhìn nhau và đều biết là Cưu Ma Trí đã nói vào chính đề rồi. A Châu hỏi:
-Lấy được quyển đồ hoạ "Lục Mạch Thần Kiếm" thì sao? Mà không lấy được thì làm gì?
Cưu Ma Trí đáp:
-Năm xưa tiên sinh cùng ước hẹn với tiểu tăng: nếu tiểu tăng lấy được quyển đồ họa Lục Mạch Thần Kiếm đưa cho tiên sinh xem mấy ngày thì tiên sinh sẽ cho tiểu tăng đến xem mấy quyển thiên thư tại Lang hoàn thuỷ các trong quý tự.
A Châu thất kinh nghĩ bụng: "lão sư này biết cả đến cái tên Lang hòan thuỷ các,có lẽ lão nói thực cũng chưa biết chừng". Tức thời nàng giả vờ nghễnh ngãng nghe "lang hòan thuỷ các" ra "đường cao thuỷ giáo" liền hỏi lại:
-Ngươi muốn ăn bánh ngọt, canh gà ư? Cái đó dễ lắm nhưng ngươi đã xuất gia làm sao ăn được món mặn?
Cưu Ma Trí quay sang bảo A Bích:
-Lão thái thái đây không hiểu là lẫn lộn thực hay giả vờ. Tôi có nghe những tay cao thủ các phái võ Trung Nguyên đương tụ họp tại Thiếu Lâm tự để thương nghị đối phó với nhà Mộ Dung ở Cô Tô đây. Tiểu tăng nghĩ tình hữu nghị với Mộ Dung tiên sinh, cũng muốn đem chút tài mọn để giúp một tay. Song xem thái độ lão thái thái thế này là cự tuyệt cả đến người ở xa hàng mấy ngàn dặm há chẳng khiến cho bạn hữu phải bào tâm ru?
A Châu vẫn một giọng ỡm ờ:
-Sao? Nhà sư lạnh bụng à? A Bích đâu mau đi lấy một tô cháo tiết gà tiết vịt nóng để đại sư ăn cho ấm ruột gan lại.
A Bích nhịn cười đáp:
-Ðại sư phụ có ăn mặn được đâu?
A Châu đưa tay lên gõ nhẹ vào trán nói:
-Phải đó, phải đó! Nhà sư không ăn mặn được, thế thì đừng dùng gà vịt thật mà dùng gà vịt chay vậy!
A Bích hỏi:
-Thưa lão thái thái! Gà chay thì làm gì có tiết?
A Châu phều phào:
-Ừ nhỉ! Thế ra mình lẩn thẩn thực biết làm thế nào bây giờ?
Hai nàng đối thoại, kẻ tung người hứng, toàn là chuyện bịa đặt. Người ở Tô Châu ai cũng mồm miệng bẻo lẻo, nói năng hoạt bát. Ðời sau nơi đây kỹ thuật ca kịch nổi tiếng với thiên hạ cũng do tập quán này mà ra. Hai ả nha hòan này bình
nhật vẫn trơ tráo cười đùa quen rồi, cái lối đùa dai của chúng khiến cho Cưu Ma Trí bực mình mà không làm gì được. Cưu Ma Trí đi Cô Tô chuyến này cốt gặp Mộ Dung công tử để thương lượng một công cuộc to tát. Nào ngờ không gặp được người chủ mà lại gặp toàn những người ngoài cuộc xen vào chẳng hiểu tâm địa họ ra sao? Cách đón tiếp hữu ý hay vô tình, hư hư thực thực, khiến cho lão không biết đối phó thế nào cho phải.
Ðại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí cũng là một nhân vật ghê gớm, sau một lúc suy nghĩ lão đã đoán chắc cả ba người: lão thái thái, Tôn Tam và Hòang lão bộc đều có ý thoái thác, không muốn cho y xem sách trong lang hòan thuỷ các. Lão quyết định: bất chấp đối phương bày mưu lập kế thoái thác bằng cách nào đi chăng nữa lão cũng nói thẳng vào đề ngay rồi sau hoặc đối xử bằng cách nhân nhượng hay là phải cương quyết dùng võ lực, cũng cần hiểu rõ để liệu chiều đối phó.
Cưu Ma Trí ôn tồn nói:
-Quyển đồ họa Lục Mạch Thần Kiếm tiểu tăng đã mang theo đây nên mới dám cả gan muốn vào xem sách trong lang hòan thuỷ các của quý phủ.
A Bích đáp:
-Mộ Dung tiên sinh đã qua đời, hòa thượng nói sao chúng tôi hay vậy chứ khẩu thuyết vô bằng biết đâu mà tin. Hơn nữa giả tỷ đại sư có mang đồ hình tới đây chúng tôi cũng không ai xem được. Thế thì trước kia hai bên có lời giao ước với nhau thế nào bây giờ cũng không còn hiệu lực nữa.
A Châu hỏi xen vào:
-Quyển đồ hoạ gì vậy? ở đâu đưa ta coi trước xem thật hay giả?
Cưu Ma Trí chỉ Ðoàn Dự đáp:
-Ðoàn công tử đây đã thuộc lòng quyển đồ hoạ đó nên tôi có đem chàng đi theo cũng như mang quyển đồ hoạ đó vậy.
A Bích mỉm cười nói:
-Tôi cứ tưởng có quyển đồ hoạ đó thật, té ra đại sư nói đùa.
Cưu Ma Trí nói tiếp:
-Tôi đâu dám nói đùa? Nguyên quyển đồ hoạ chính đã bị Khô Vinh đại sư chùa Thiên Long nước Ðại Lý đốt mất rồi. Cũng may mà Ðoàn công tử còn nhớ được rành mạch cả, vậy công tử đây tức là quyển đồ hoạ sống đó.
A Bích nói:
-Ðoàn công tử nhớ được thì việc đó thuộc về việc riêng Ðoàn công tử mà người được vào lang hòan thuỷ các xem sách cũng sẽ phải là Ðoàn công tử, có can dự gì đến đại sư?
Cưu Ma Trí đáp:
-Tiểu tăng muốn được thực hiện lời ước ngày trước, đem Ðoàn công tử đốt trước mộ phần Mộ Dung tiên sinh.
Mọi người nghe nói đều thất kinh, nhìn nét mặt Cưu Ma Trí vẫn thản nhiên chứ không có vẻ gì là lão nói đùa cả.
A Bích hỏi:
-Ðại sư phụ nói đùa hẳn. Ðường đường là một con người chứ có phải mớ củi đâu mà muốn đốt lúc nào thì đốt?
Cưu Ma Trí đáp:
-Tiểu tăng mà định đốt y thì tin chắc rằng y không thể chống cự lại được.
A Bích nhếch mép cười nói tiếp:
-Thế mà đại sư phụ bảo Ðoàn công tử thuộc lòng cả quyển đồ hoạ Lục Mạch Thần Kiếm! Ðiều đó hòan toàn bịa đặt. Tôi nghe nói "Lục Mạch Thần Kiếm" lợi hại vô cùng, nếu Ðoàn công tử biết kiếm pháp đó thì khi nào lại chịu khuất phục dưới bàn tay đại sư?
Cưu Ma Trí gật đầu đáp:
-Ðiều đó cũng có lý nhưng cô nương mới biết có một mà chưa biết hai. Ðoàn công tử đã bị tiểu tăng điểm huyệt nên kình lực trong người không thể vận dụng được, vì thế mà y phải chịu khuất phục.
A Châu vẫn lắc đầu lia lịa nói:
-Ta không thể tin ngươi được. Ngươi hãy giải các huyệt đạo cho công tử, để chàng sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm cho ta xem đã. Chứ ta thấy chín mươi phần trăm là ngươi nói dối.
Cưu Ma Trí gật đầu đáp:
-Ðược rồi! Ðể tiểu tăng thử cho lão thái thái coi.
A Bích và A Châu rất có cảm tình với Ðoàn Dự. Nghe Cưu Ma Trí nói đã điểm huyệt chàng, hai nàng tìm cách bịp lão để lão chịu giải huyệt đạo cho chàng.
Không ngờ hai nàng vừa nói, Cưu Ma Trí đã đưa bàn tay vỗ hờ trên các chỗ huyệt đạo ở lưng, trước ngực và vế đùi Ðoàn Dự mấy cái. Lập tức Ðoàn Dự đã cảm thấy những mạch máu trong các huyệt đạo lưu thông được ngay chứ không còn bế tắc nữa. Chàng chỉ hơi vận khí một chút đã thấy nội lực chuyển động dễ dàng như không. Chàng lại thử chiêu theo phương pháp vận khí trong "trung xung kiếm pháp" vận nội lực ra huyệt trung xung ở ngón tay giữa bên phải, tức khắc cảm thấy ngón tay giữa nóng ran, chàng biết chỉ duỗi ngón tay ra là một đường kiếm khí đã
phóng theo liền.
Cưu Ma Trí nói:
-Ðoàn công tử! Mộ Dung lão thái thái không tin rằng công tử đã luyện được Lục Mạch Thần Kiếm, xin công tử như tôi đây để chém đứt một cành trên cây quế kia xuống.
Lão nói xong vận động chân lực vào bàn tay, rồi giơ tay chém một đường theo pháp hoả diệm đao. Bỗng nghe rắc một tiếng, một cành quế rất lớn ở trên cây giữa sân đã không gió mà gãy và chỗ gãy tầy như dùng dao kiếm sắc bén chém đứt vậy.
Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi bất giác đều kêu lên một tiếng "úi chà". Hai người tuy biết võ công Cưu Ma Trí rất ghê gớm từ lâu, khó lòng mà địch nổi lão được, song chỉ cho là loại có tà thuật về bàng môn tả đạo mà thôi. Bây giờ thấy lão dùng chưởng lực chặt đứt một cành cây to như thế mới biết nội lực lão thâm hậu đến cực điểm trên đời ít người bì kịp.
Ðoàn Dự lắc đầu đáp:
-Tôi không hiểu một chút võ công nào hết và cũng chẳng biết gì về Lục Mạch Thần Kiếm hay Bát mạch thần đao nào cả. Một cành quế hoa đẹp đẽ như thế của người ta, sao ngươi lại chặt đi?
Cưu Ma Trí nói:
-Công tử quá khiêm làm gì thế? võ nghệ công tử vào bậc nhất trong các vị cao thủ họ Ðoàn nước Ðại Lý. Hiện nay ngoại trừ Mộ Dung công tử và tại hạ ra thì ít ai địch nổi công tử. Trong phủ Cô Tô Mộ Dung đây là một kho tàng về võ học, công tử hãy thi thố vài đường để lão thái thái chỉ điểm thêm cho! Ðó là một điều rất hay chứ sao?
Ðoàn Dự giận dỗi đáp:
-Suốt dọc đường ngươi đối với ta vô lễ như thế nào, đem ta cắp ngang, xách dọc,rút xuôi, kéo ngược, lôi ta đến Giang Nam này thế tức là ta đã bị khuất nhục dưới võ công của ngươi mà đành bó tay không làm sao được. Chính ta không muốn nói gì với ngươi nữa. Nhưng ta thấy nơi đây phong cảnh hữu tình, lại có người đẹp như tiên, những sự oán hờn chứa chất trong lòng ta đã tiêu tan hết. Thế là thôi, sự liên quan giữa chúng ta từ đây cắt đứt, không ai nói đến ai nữa.
A Châu và A Bích thấy cái dáng điệu đồ gàn của Ðoàn Dự cũng đã buồn cười lại nghe thấy chàng nói tán dương mình bất giác trong lòng cũng cảm thấy hứng thú.
Cưu Ma Trí lại nói:
-Công tử không chịu diễn thử Lục Mạch Thần Kiếm, tức là cố ý để tỏ ra lời tôi nói bịa đặt chứ gì?
Ðoàn Dự đáp:
-Chính ngươi vẫn quen mở mồm bịa chuyện, nếu thực có ước hẹn với Mộ Dung tiên sinh thì sao ngươi không đến Ðại Lý lấy kiếm kinh sớm đi mà lại đợi Mộ Dung tiên sinh quy tiên rồi, không còn người đối chứng mới đến phủ Mộ Dung nói thiên hô bách sát? theo chỗ ta nhận xét thì ngươi có ý hâm mộ võ công cao siêu của nhà Mộ Dung đây rồi bịa chuyện ra, đánh lừa lão thái thái cho ngươi vào tàng thư các,xem trộm hộ kinh kiếm pháp để xưng hùng với thiên hạ. Cưu Ma Trí ngươi thử nghĩ coi! Người ta đã là nhân vật lừng danh trong võ lâm chẳng lẽ lại không hiểu rõ cái mánh khoé bịp bợm của ngươi hay sao? Nếu ngươi dùng những lời hoa mỹ xảo trá mà đánh lừa lấy cắp được bí quyết võ công của nhà Mộ Dung thì những kẻ lừa bịp thiên hạ này thiếu gì? Còn đâu đến lần ngươi nữa mà hòng?
Cưu Ma Trí lắc đầu cải chính:
-Ðoàn công tử! Sự suy đoán của công tử sai rồi. Tiểu tăng và Mộ Dung tiên sinh tuy đính ước với nhau đã lâu, song vì tiểu tăng còn phải đóng cửa luyện môn "hoả diệm đao" trong chín năm chưa thành, không ra khỏi ngõ. Vì thế mà chưa đến nước Ðại Lý. Giả tỷ tiểu tăng chưa thấu đáo được môn "hoả diệm đao" thì lần này không yên thân mà ra khỏi chùa Thiên Long được nữa...
Ðoàn Dự ngắt lời:
-Ðại hòa thượng! Ngươi đã có tham danh lại đủ quyền vị võ công cao cường đến thế, ung dung là một vị hộ pháp quốc vương nước Thổ Phồn. Cứ ở yên trong cái địa vị đó há chẳng vinh dự rồi sao? Hà tất còn xuống Giang Nam đánh lừa người ta?
Ta khuyên ngươi nên quay về sớm đi là hơn!
Cưu Ma Trí nói:
-Nếu quả công tử không chịu diễn Lục Mạch Thần Kiếm thì đừng trách tiểu tăng vô lễ.
Ðoàn Dự đáp:
-Ngươi đã vô lễ nhiều rồi, chẳng lẽ lại còn cách nào vô lễ hơn thế nữa? Chỉ còn cách chém ta một đao giết đi là cùng chứ gì?
Cưu Ma Trí lại hỏi vắn tắt:
-Bây giờ công tử có theo lời tiểu tăng hay không?
Ðoàn Dự thủng thẳng đáp:
-Thế hử! Rất có thể...
Cưu Ma Trí hớn hở nói:
-Thế thì xin diễn thử mấy đường thần kiếm!
Ðoàn Dự hỏi lại:
-Thần kiếm à? Mi có kiếm không? cho mượn một thanh coi!
Cưu Ma Trí trong lòng có vẻ bực bội đáp:
-Công tử chủ ý định làm nhục bần tăng! hãy coi đao pháp đây!
Nói xong lão giơ tay trái lên, tức thời một luồng kinh phong từ trong tay phát ra nhằm đánh thẳng vào mặt Ðoàn Dự.
Ðoàn Dự đã có chủ ý từ trước, tự biết võ công mình không kịp đối phương, có giao đấu hay không giao đấu kết quả cũng như nhau mà thôi. Lão đã muốn bắt buộc chàng phải chứng minh là có biết sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm cho mọi người hay, đã thế chàng làm ngược hẳn lại ý định của Cưu Ma Trí. Chàng thấy đao của lão chém tới, cứ để mặc, chẳng đánh lại mà cũng chẳng thèm chống đỡ.
Cưu Ma Trí kinh hoảng vì lão chưa có ý định dùng kình lực giết chàng ngay bây giờ. Lão vội đưa bàn tay hất ngược lên, một luồng gió lạnh vèo qua, xén đứt hẳn một mớ tóc trên đầu chàng. Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi nhìn nhau hoảng vía.
A Châu và A Bích cũng đều tái mặt.
Cưu Ma Trí tiu nghỉu nói:
-Thế nào công tử đành chịu chết chứ không chịu ra tay sao?
Ðoàn Dự đã sớm gạt sự sống chết ra ngoài tâm trí rồi nên chàng khanh khách cười đáp:
-Ðại hòa thượng đủ cả: tham, sân, ái, dục, si mà còn công nhiên nhận làm một vị cao tăng cửa Phật thì ra chỉ có hư danh thôi.
Cưu Ma Trí đột nhiên đánh luôn vào A Bích một chưởng và nói:
-Dùng lời tử tế không xong thì trước hết ta phải giết một con bé trong phủ Mộ Dung cho biết tay.
Bị đánh bất thình lình A Bích thất kinh vội nghiêng người né tránh khỏi đường đao. Bỗng nghe thấy "sầm" một tiếng, chiếc ghế ở sau nàng đã bị kình lực đụng phải gãy vụn ra. Cưu Ma Trí lại giơ tay phải đánh luôn đao thứ hai. A Bích nằm phục xuống, lăn đi một vòng. Tuy nàng mau lẹ nhưng cũng sợ hãi rụng rời. Cưu Ma Trí quát to lên một tiếng rồi phóng ra đường đao thứ ba chém tới. A Bích sợ tái mặt. Tuy nàng chân tay lanh lẹ nhưng đối với sức nội kình vô hình vô ảnh nàng không biết đánh đỡ cách nào cho đúng.
A Châu đối với A Bích như tình ruột thịt.
Thấy bạn bị nguy nàng không kịp suy nghĩ gì hết liền giơ gậy lên nhằm đánh thẳng vào sau lưng Cưu Ma Trí. Lúc A Châu đứng nói chuyện hay là lúc từ từ cất bước đi trông giống hệt như một bà già bảy tám mươi không sai một mảy may nào nhưng lúc này vì sự nguy cấp đành liều mạng thì thân pháp nàng lại cực kỳ mau lẹ.
Cưu Ma Trí thoáng nhìn đã khám phá ra ngay, lão mỉm cười nói:
-Ồ thiên hạ lại có bà già 17, 18 tuổi, nàng định lừa bịp hòa thượng này đến bao giờ?
Nói xong lão đánh trả lại luôn một chưởng. Chiếc gậy trúc của A Châu bị gãy làm ba đoạn. Ðồng thời lão lại phóng luôn một đao nhằm chém bổ vào A Bích.
Trong lúc hoảng hốt A Bích quờ tay vớ liều một cái bàn, nghiêng mặt bàn ra đỡ.
Bỗng nghe "chát chát" mấy tiếng, chiếc mặt bàn bằng gỗ tử đàn đã bị gãy vụn, chỉ còn trơ lại hai chân trong tay A Bích.
Ðoàn Dự thấy A Bích lưng tựa vào vách, không còn đất lùi mà Cưu Ma Trí lại đánh tiếp luôn chưởng nữa. Lúc đó Ðoàn Dự chỉ nghĩ đến việc cứu người là khẩn cấp chứ không kịp suy tính ra mình không phải là địch thủ của Cưu Ma Trí, chàng liền duỗi ngón tay giữa ra một cái, luồng kình lực từ huyệt trung xung bắn vụt ra kèm những tiếng kêu "vo vo". Ðó chính là trung xung kiếm pháp.
Kỳ thực Cưu Ma Trí đâu có định giết A Bích, bất quá lão chỉ cần bức bách Ðoàn Dự phải ra tay. Không thế thì lão đã sử dụng những thế thần diệu trong "hỏa diệm đao" là A Bích hết đường né tránh.
Cưu Ma Trí thấy Ðoàn Dự quả nhiên trúng kế, lão lại trở tay đánh luôn A Châu một chưởng. Luồng chưởng lực phát ra làm cho A Châu lảo đảo cả người, vai áo rách toạc, A Châu kinh hoảng rú lên. Ðoàn Dự lại tức khắc sử dụng "thiếu mạch kiếm" ở bên tay trái để chặn đón hoả diệm đao ở tay trái Cưu Ma Trí. Hai đao của Cưu Ma Trí đều bị Lục Mạch Thần Kiếm của Ðoàn Dự chặn đón, chàng đã bảo vệ cho hai nàng A Châu, A Bích thoát khỏi cơn nguy hiểm.
Cưu Ma Trí vừa muốn biểu dương bản lĩnh của mình vừa muốn cho mọi người thấy Ðoàn Dự biết sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm nên cố ý phát huy kình lực cho thật mạnh, những tiếng gió phát ra "vu vu" không ngớt. Ðoàn Dự nhờ có chu
cáp thần công đã thu hút được bao nhiêu nội lực của mấy tay đại cao thủ vào trong người nên lúc này nếu so về nội lực thì Ðoàn Dự có phần mạnh hơn Cưu Ma Trí.
Song khốn nỗi chàng không hiểu một tý võ công nào ngoài mấy thế kiếm mà chàng học được ở chùa Thiên Long. Chàng chỉ nhớ một cách bất di bất dịch mấy đường trong Lục Mạch Thần Kiếm theo đúng chiêu thức của nó chứ không biết biến hoá để ứng dụng. Cưu Ma Trí đem chàng ra để đùa giỡn với chưởng lực. Nội lực hai bên xung đột, sức mạnh phát ra làm cho tường vách và cửa sổ chung quanh nhà vỡ nát thành nhiều lỗ thủng.
Cưu Ma Trí vừa đấu vừa khen:
-Lục Mạch Thần Kiếm quả nhiên lợi hại, trách nào năm xưa Mộ Dung tiên sinh đã đem lòng hâm mộ.
Thôi Bách Kế cũng rất lấy làm kinh ngạc, lão lẩm bẩm: "trước mình vẫn tưởng Ðoàn Dự võ công tầm thường, nào ngờ lại có bản lãnh đến thế? họ Ðoàn nước Ðại Lý đúng là danh bất hư truyền. Cũng may mà mình khi ở phủ Trấn Nam Vương chưa làm việc gì xằng bậy nếu không thì chắc đã bị họ Ðoàn tống cổ đi rồi". Thôi Bách Kế nghĩ lại, mồ hôi toát ra lạnh toát cả người.
Hai người giao đấu một hồi lâu, kỳ thực thì hiểm nào Cưu Ma Trí cũng có thể đẩy Ðoàn Dự vào tử địa được. Có điều lão cố ý kéo dài cuộc đấu để đùa giỡn và phô trương tài năng. Sau lão hiểu rằng kiếm pháp Ðoàn Dự quả có chỗ độc đáo nhưng không hiểu sao chàng lại không biết phát huy ra chẳng khác gì một đứa trẻ lên ba mà trong tay lại có gia tài hàng triệu nhưng không biết tiêu xài. Rồi lão đâm ra khinh thị. Ðánh vài hiệp nữa, thốt nhiên Cưu Ma Trí lại nghĩ khác "nếu cứ giằng dai mãi, lỡ ra đối phương chỉ tâm linh lĩnh hội được yếu quyết võ công, thêm vào nội lực kiếm pháp hai môn sở trường riêng của chàng chẳng hoá ra trở thành một kẻ kình địch vô cùng lợi hại ư?".
Ðoàn Dự cũng biết là giờ phút này sự sống chết của chàng hòan toàn đặt trong tay Cưu Ma Trí, chàng gọi:
-A Châu! A Bích! Hai vị tỷ nương chạy đi mau lên! Không thì không kịp đâu.
A Châu hỏi:
-Ðoàn công tử! Tại sao công tử lại cứu chị em chúng tôi?
Ðoàn Dự đáp:
-Vì tôi ghét tên hòa thượng này ỷ mình võ công cao cường, hòanh hành bá đạo,khinh khi người chung quang. Ðáng tiếc tôi không hiểu về võ công, khó lòng địch lại lão. Các chị chạy mau đi thôi!
Cưu Ma Trí mỉm cười nói:
-Chạy cũng không thoát đâu!
Vừa nói dứt lời, Cưu Ma Trí đưa ngón tay trỏ bên trái nhằm điểm huyệt của Ðoàn Dự.
Ðoàn Dự kêu rú lên toan né tránh nhưng đã muộn. Ba yếu huyệt của chàng đã bị Cưu Ma Trí điểm trúng, tức thời hai chân bị tê bại, té nhào xuống đất.
Chàng gọi ầm lên:
-A Châu, A Bích! Chạy mau đi! Chạy mau đi!
Cưu Ma Trí bật cười nói:
-Chết đến cổ họng, thân không giữ nổi lại còn thương hoa tiếc ngọc.
Ðoạn lão ung dung lại chỗ ngồi nói với A Châu:
-Cô nương cũng bất tất phải dở trò quỷ quái làm gì nữa. Ai là người làm chủ mọi việc trong phủ này? Ðoàn công tử đã thuộc lòng cả quyển đồ hoạ Lục Mạch Thần Kiếm. Có điều hắn không hiểu võ công nên khó mà sử dụng được đó thôi. Ngày mai tôi sẽ đem hắn ra đốt trước mồ Mộ Dung tiên sinh, nếu tiên sinh dưới suối vàng có linh thiêng, chắc cũng chứng dám lòng thành cho người bạn già đã không phụ lời ước năm xưa.
A Châu cũng hiểu rằng hiện tình trong toà "cẩm vận tinh xá" này không có ai đối thủ nổi với Cưu Ma Trí. Nàng chau đôi mày liễu gượng cười nói:
-Ðược rồi! Lời lão hòa thượng nói chúng tôi có thể tin được. Phần mộ của lão gia tôi cách đây chừng một ngày đường thuỷ. Hôm nay thì trời đã tối rồi, sáng sớm mai chị em chúng tôi xin thân hành dẫn hòa thượng cùng Ðoàn công tử đi tảo mộ. Xin bốn vị hãy nghỉ ngơi một chút để đợi dùng cơm chiều.
Nói dứt lời A Châu đứng dậy kéo tay A Bích cùng đi vào trong nhà. Ðoàn Dự nhìn theo bóng hai nàng nhăn nhó cười.
Sau độ nửa giờ thì thấy một tên hầu trai ra nói:
-Hai cô nương có lời mời bốn vị qua nhà "thính vũ" dùng cơm chiều.
Cưu Ma Trí cám ơn rồi dắt tay Ðoàn Dự đi theo tên hầu trai. Quanh co theo một con đường nhỏ rải toàn đá sỏi lớn bằng quả trứng ngan một vòng, qua mấy chỗ núi đá, cây hoa ra bờ hồ. Dưới một gốc liễu có buộc chiếc thuyền nhỏ. Tên hầu chỉ một căn nhà nho nhỏ ở giữa hồ, bốn mặt đều có cửa sổ nói:
-Nhà "thính vũ" kia rồi.
Tên hầu mời bốn người xuống thuyền rồi từ từ chèo ra. Khi tới gần thấy toà nhà này làm toàn bằng cây thông, để cả vỏ trông thực trang nhã và đượm vẻ thiên nhiên. Ðoàn Dự vừa bước lên bờ đã thấy A Bích đứng đó đón khách. Nàng mặc áo dài màu xanh lạt, má thoa một lần phấn mỏng. Ðứng tựa bên nàng là một vị nữ lang mặc áo hồng tuổi chừng 15, 16 nhìn Ðoàn Dự tựa như cười mà không phải cười, nét mặt đầy vẻ khôn ngoan lanh lợi. A Bích thì khuôn mặt trái xoan trông rất thanh nhã và tươi đẹp, còn nữ lang kia khuôn mặt tròn hai mắt linh động, mỗi người có một vẻ kiều diễm riêng để làm rung cảm lòng người.
Ðoàn Dự tới gần ngửi thấy một mùi hương phảng phất êm dịu và quen quen, chàng mỉm cười hỏi:
-A Châu tỷ nương! cô là một vị nữ lang xinh đẹp như vậy mà giả trang làm đàn bà lại giống đến thế? thật là tài tình.
Nữ lang này chính là A Châu. Nàng liếc mắt mỉm cười hỏi Ðoàn Dự:
-Công tử bấy giờ phải cúi đầu lạy tôi ba lạy chắc bực mình lắm phải không?
Ðoàn Dự lắc đầu ngoay ngoảy đáp:
-Ba lạy đó rất có ý nghĩa. Có điều tôi đoán không được trúng lắm thôi.
A Châu hỏi:
-Công tử đoán thế nào mà không trúng?
Ðoàn Dự đáp:
-Trước tôi đã đoán cô nương và cô A Bích cũng như nhau, đều là mỹ nhân hiếm có ở đời. Tôi đinh ninh là hai cô chẳng khác nhau mấy, nào ngờ tới khi gặp mặt thì cô này... cô này...
A Châu cướp lời:
-Phải chăng tôi còn kém A Bích xa?
Ðồng thời A Bích cũng chen vào:
-Công tử thấy chị ấy đẹp gấp mười tôi, nhìn thấy phải giật mình chứ gì?
Ðoàn Dự lắc đầu đáp:
-Trật hết, tôi cảm thấy cái tài tình của ông tạo hoá thực là khiến cho người ta phục sát đất. Ông đã dốc tâm trí ra tạo nên một trang tuyệt sắc giai nhân là A Bích cô nương, tưởng rằng bao nhiêu linh tú ở Giang Nam đã dùng hết nhẵn rồi nào ngờ ông lại còn tạo thêm được một vị A Châu tỷ nương nữa. Hai dung mạo khác nhau nhưng mỗi người đều có một vẻ đẹp ưa nhìn riêng, tôi nghĩ mãi mà chưa tìm được câu nào để tỏ được cái vẻ diễm lệ của hai cô.
A Châu cười nói:
-Chà công tử thật là mồm mép trơn như mỡ, đã tán dương một tràng dài lại còn bảo là không tìm được một câu nào để mô tả.
A Bích chậm rãi mời:
-Bốn vị giá lâm nơi hoang dã này không có gì đặc biệt để thết các vị, hãy xin các vị dùng ly rượu nhạt và dùng mấy thứ món ăn ở địa phương Giang Nam.
Ðoàn nàng mời bốn người vào tiệc. Nàng và A Châu ngồi bồi tiếp ở ghế đầu.
Ðoàn Dự thấy bát chén toàn bằng đồ sứ rất mỹ thuật và tinh xảo trong bụng đã khen thầm. Ngoài các món xào nấu: tôm, cá, thịt còn bao nhiêu hoa quả, bánh trái,trông đã đẹp mắt lại có mùi hương ngào ngạt.
Ðoàn Dự tán dương:
-Có non sông gấm vóc mới nảy ra những bậc tuyệt thế giai nhân, có những nhân vật tuyệt thế, tất có thông minh tài tử đặc biệt để chế tạo những món ăn mỹ vị thanh cao.
A Châu hỏi:
-Công tử thử đoán xem các món ăn đây tôi làm hay A Bích làm?
Ðoàn Dự đáp:
-Các món ăn mầu sắc rực rỡ mùi hương nồng nàn là của cô nương làm, còn những món mầu sắc đạm nhạt, mùi vị thanh tân là cô A Bích làm.
A Châu vỗ tay cười đùa nói:
-Không ngờ thầy đồ gàn đoán đúng thế. A Bích cô bảo thưởng cho thầy cái gì đây.
A Bích tủm tỉm cười đáp:
-Ðoàn công tử sai bảo điều gì chúng ta sẽ hết sức tuân theo. Làm gì mà thưởng mới chả thưởng, chúng ta chỉ là người phục dịch cho công tử.
A Châu hừ một tiếng và nói:
-Hễ cô mở miệng là nói bênh người ta rồi. Trách nào ai ai cũng bảo cô tốt, còn tôi chẳng ra gì.
Ðoàn Dự mỉm cười:
-Một cô thuỳ mị ôn hòa, một cô hoạt bát lanh lợi mỗi cô một vẻ riêng. A Bích cô nương! lúc ngồi thuyền tôi có được nghe cô nương gẩy một khúc đàn bằng cây nhuyễn tiên, dư âm hãy còn văng vẳng bên tai. Vậy dám cả gan xin cô nương cho nghe một khúc bằng nhạc khí thực. Ðược thế thì dù ngày mai có bị Cưu Ma Trí đốt thành tro cũng không uổng một đời.
A Bích nhẹ nhàng đứng dậy nói:
-Công tử không hiềm nhơ tai tôi xin hiến cái nghề mọn vụng về để vui lòng quý khách.
Nói xong liền chạy vào phía sau bình phong lấy một cây dao cầm. Cây đàn này ngắn hơn cây thất huyền cầm một thước mà có những chín dây, các dây mầu sắc khác nhau. A Bích ngồi ngay ngắn trên chiếc cẩm đàn, để cây cửu huyền cầm trước mặt và quay sang nói với Cưu Ma Trí:
-Xin đại sư phụ chỉ giáo thêm cho!
Cưu Ma Trí đáp:
-Không dám.
Cưu Ma Trí băn khoăn, không hiểu sao nàng lại yêu cầu mình chỉ giáo? Chẳng hay nàng có dụng ý gì?
A Bích hai tay trắng muốt như ngọc, hai ngón tay búp măng bên trái lần nhẹ trên dây đàn, tay phải vừa bật vừa gảy, tiếng đàn tình tang nổi lên.
Ðoàn Dự tuy không hiểu gì về võ công nhưng về các môn cầm kỳ thi hoạ chàng rất thông thạo, vừa nghe qua mấy tiếng chàng đã hiểu ngay là chín sợi dây đàn này chế tạo bằng chín thứ chất liệu khác nhau như thép đồng và tơ chẳng hạn, cương thì rất cương mà nhu cũng rất nhu.
A Bích vừa dạo mấy cung, tiếng đàn trầm xuống dần dần, mỗi lúc một nhu hòa.
Bốn người ngồi nghe đều cảm thấy mí mắt nặng chĩu xuống, mơ màng như người buồn ngủ.
Thôi Bách Kế thông hiểu nhiều về các loại quỷ mỵ trên chốn giang hồ nên ngay
từ lúc mới bắt đầu vào Mộ Dung trang đã nhất nhất đề phòng. Y vừa nhắm mắt muốn ngủ nhưng thốt nhiên kinh hòang nghĩ thầm: "không xong rồi! Con ranh này chắc nó ám toán gì chúng ta đây!". Rồi y gọi lớn:
-Quá hiền điệt! Những thủ đoạn gian hiểm trên chốn giang hồ thực đủ điều kỳ dị! Hiền điệt phải lưu ý cẩn thận đó.
Quá Ngạn Chi gật đầu và trả lời một cách hàm hồ:
-Ðúng thế! chúng ta phải sáng suốt mà nhận định.
Nói chưa dứt lời thì lại tiếp luôn một cái ngáp dài. Cái ngáp này tựa hồ có sức truyền nhiễm, rồi cả Thôi Bách Kế, Ðoàn Dự cũng ngáp theo. Tiếng đàn lại càng dịu dàng réo rắt, bốn bề im lặng như tờ, mọi người đều cảm thấy mệt mỏi, chỉ muốn nằm vật ra ngủ liền. Ðột nhiên nghe "tưng" một tiếng nhè nhẹ. Ðoàn Dự đột nhiên cảm thấy trong miệng nóng ran rồi huyệt "thiên trì" ở khuỷu tay thông chuyển được ngay. Ðoàn Dự vừa mừng vừa sợ nhưng chàng vẫn cho là lúc Cưu Ma Trí điểm huyệt chàng lão chưa dùng toàn lực nên hiệu lực không được lâu, tới lúc này là nó tự giải đấy thôi. Nào ngờ A Bích gẩy một lúc nữa lại bật lên một tiếng "tưng" thì huyệt "phách hộ" sau lưng chàng cũng thông chuyển được. Ðoàn Dự ngầm vận nội lực thử xem thế nào thì thấy nội khí nửa người phía trên đã lưu thông được như thường, không còn trở ngại gì nữa. Bấy giờ chàng mới biết là tiếng đàn của A Bích cũng cảm ứng với nội khí người ta, nó công nhiên có năng lực giải được huyệt đạo. Một lúc nữa hai huyệt đạo ở hai đùi cũng theo tiếng đàn mà giải được hết. Ðoàn Dự đưa mắt nhìn A Bích và trong lòng vô cùng cảm kích. Thấy A Bích đang ngưng thần chuyển khí, hai tay lựa nắn giây đàn. Một bên thì Thôi Bách Kế cùng Quá Ngạn Chi đang say ngủ ngáy pho pho, một bên thì Cưu Ma Trí đang
chắp tay ngồi, dường như lão đang vận kình lực để chống lại với tiếng đàn của A Bích. Ðoàn Dự nhìn chừng uống xong chén trà thì thấy trên trán nàng rươm rướm mồ hôi, chỗ mái tóc có làn khói nhè nhẹ bốc lên. Cưu Ma Trí hình lộ vẻ mỉm cười,đôi mắt vẫn sáng rực. Ðoàn Dự có vẻ băn khoăn lo rằng tiếng đàn của A Bích nếu không lung lạc được Cưu Ma Trí thì e rằng trái lại nàng sẽ bị lão đả thương mất.
Thế thì mình đối phó thế nào để cứu được nàng? giữa lúc đó bỗng lại nghe A Châu cất tiếng hát:
Gió heo sông Dịch lạnh lùng
Ra đi tráng sĩ còn mong đâu về?
Tiếng đàn rất là mềm mại mà ý nghĩa trong lời ca thì lại thẳng thắn hiên ngang,hai đằng không ăn nhịp với nhau. Ðoàn Dự lắng nghe cảm thấy có điều quái dị.
Về Đầu Trang Go down
Oz Vessalius
Tướng Quân
Tướng Quân
Oz Vessalius

Tổng số bài gửi : 95
Điểm Thưởng : 5149
Độ Tin Tưởng : 104
Join date : 05/01/2011

Thiên Long Bát Bộ - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ   Thiên Long Bát Bộ - Page 2 I_icon_minitimeThu Jan 06, 2011 5:27 pm

Hồi 29

Mạn Ðà Sơn Trang
A Châu hát đi hát lại ba lần câu:
Gió heo sông Dịch lạnh lùng
Ra đi tráng sĩ còn mong đâu về?
Ðoàn Dự nhìn đoá hoa nhỏ cài bên món tóc mai nàng lúc nào cũng động rung rinh, đôi môi tươi thắm biến thành lợt lạt, chàng sực nhớ ra lẩm bẩm một mình:
-"Phải rồi! A Châu sở dĩ hát đi hát lại hai câu thơ này là nhủ ta làm cái việc Kinh Kha hành thích Tần Thuỷ Hoàng. Nội lực A Bích không thể địch nổi lão hòa thượng này, nếu cứ miễn cưỡng chống chọi hoài thì e rằng nàng tất bị nội thương
nguy kịch".
Nghĩ vậy chàng ngấm ngầm ôn lại các thế Lục Mạch Thần Kiếm. Chàng thử vận động khí lực ra thì đã thấy thông đồng lưu loát, không bị vấp váp ngăn trở chỗ nào. Chàng đọc sách thánh hiền từ thuở nhỏ, lại thêm thấm nhuần kinh Phật, chí
khí không khỏi có đôi phần ngạo nghễ. Chàng nghĩ rằng: "các bậc đại trượng phu làm việc phải cho quang minh lỗi lạc, thừa cơ người ta không phòng bị để đánh lén là hành động đê hèn. Trong lòng đang còn phân vân chưa quyết, bỗng nghe đánh "binh" một cái, một sợi dây đàn của A Bích đứt, nàng rùng mình một cái. A Châu cũng im bặt tiếng hát, đôi đũa cầm trong tay toan ném vào Cưu Ma Trí, thì lại "bục" một tiếng, một sợi dây đàn nữa đứt.
Thôi Bách Kế cùng Quá Ngạn Chi rú lên những tiếng kinh hồn. Ðoàn Dự thấy tình thế cực kỳ cấp bách, miệng lẩm bẩm: "vì việc cứu người ta đành phải tòng quyền hành động đê hèn một chút vậy". Chàng vươn tay phải lên, hai luồng kình lực ở ngón tay trỏ phóng ra nhằm Cưu Ma Trí đâm tới nhanh như chớp. Ðó là hai thế kiếm khí "thương dương" và "trung xung".
Giả tỷ Cưu Ma Trí đang công nhiên đấu kiếm cùng Ðoàn Dự thì dù những thế kiếm cấp bách hơn nữa lão cũng chống dễ như chơi. Nhưng lão yên trí rằng huyệt đạo chàng mới bị phong toả, chưa làm gì được nên lão đem hết nội lực ra đấu với tiếng đàn của A Bích. Giữa lúc lão chiếm được ưu thế, những tưởng dùng tiếng đàn phản kích làm cho tâm thần A Bích phải mê loạn, rồi quay sang hạ chốt A Châu là xong. Lão tuyệt nhiên không ngờ tới chuyện Ðoàn Dự phóng kiếm khí ra đâm mình. Lão kêu rú lên một tiếng, người bắn tung đi. Ðồng thời dây đàn A Bích đứt luôn năm sợi. Những tia máu đỏ phun ra như tưới, đó là lưỡi thần kiếm do Ðoàn Dự phóng ra đã đâm trúng vai bên phải Cưu Ma Trí.
A Bích tay trái kéo A Châu, tay phải níu Ðoàn Dự nhảy vọt ra. Ba người nhảy qua cửa sổ ra ngoài, rơi đúng vào con thuyền nhỏ. A Châu đưa tay ra dúi đầu Ðoàn Dự thấp xuống, rồi cầm luôn lấy mái chèo bơi thuyền đi.
Ðoàn Dự bỗng nghe thấy thùm một tiếng rất lớn, chiếc thuyền tung lên rồi lại hạ xuống, chẳng khác gì đang đi ngoài biển cả sóng to. Nước hồ bắn lên tung toé, khắp mình mẩy ướt đẫm.
Chàng quay đầu nhìn lại thấy Cưu Ma Trí đứng trên bờ, đang lấy bàn đá, ghế đá ném xuống không ngớt. Cũng may A Châu đã chèo thuyền ra xa một chút và Cưu Ma Trí đã bị trúng kiếm khí bị trọng thương, kình lực kém đi nên liệng không tới thuyền.
A Châu thấy hòa thượng sức khoẻ như thần, nàng sợ hãi vô cùng khấn thầm:
"cầu trời cho lão đừng đuổi kịp". Nàng bơi thuyền xa thêm vài chục trượng nữa,nhìn lại thấy Cưu Ma Trí không đuổi kịp nữa rồi. A Bích thở phì phì nói:
-Ðoàn công tử ơi! Nhờ công tử mà nay tôi được thoát nạn nếu không thì đã chết về tay lão hòa thượng này rồi.
Ðoàn Dự nói:
-Ðáng lý tôi phải tạ ơn cô mới đúng. Lão hòa thượng này nói sao là làm được vậy, lẽ ra tôi bị lão đem đi đốt sống rồi.
A Châu vội gạt đi:
-Hãy khoan nói đến chuyện cô tạ ơn cậu, cậu tạ ơn cô đã! Việc trốn sao cho thoát khỏi tay lão trọc còn gấp hơn nhiều.
Giữa lúc ấy Ðoàn Dự nghe có tiếng mái chèo bơi nước đang đuổi theo, chàng giật mình la lên:
-Trời ơi! Lão sư đang đuổi theo chúng ta rồi.
A Bích đã mệt nhoài, không thể lấy ngay lại sức lực trong chốc lát được. Nàng tựa vào mạn thuyền nói:
-A Châu tỷ nương! Bọn ta đến tạm lánh tại trang Lục đại gia.
A Châu có vẻ bực tức đáp cộc lốc:
-Ðành là thế vậy.
Rồi nàng lại tiếp:
-Thật là bực mình. Lục đại gia thường cười chị em mình võ công chẳng ra gì.
Bây giờ gặp kẻ đại địch túng thế phải vào ẩn trong nhà y, chắc rồi y cười mình suốt đời.
Từ khi Ðoàn Dự tăng nhiều nội lực trong người, chàng rất thính tai. Nghe rõ tiếng mái chèo bơi mỗi lúc một lại gần thêm liền cầm lấy một mái chèo để phụ A Châu bơi thuyền cho lẹ hơn. Thuyền thêm một mái chèo nên lại cách xa chiếc thuyền đuổi theo hơn được ít nữa.
Ðoàn Dự nói:
-Bản lãnh lão sư này ghê gớm lắm. Hai vị tỷ nương còn nhỏ tuổi thế này thua lão cũng chẳng có gì là nhục.
Bỗng nghe có tiếng gọi từ đằng xa vọng lại:
-A Châu, A Bích hai cô bơi thuyền trở lại mau! bần tăng đã là bạn với công tử Mộ Dung có lý đâu lại làm khó dễ các cô?
Ðúng là tiếng Cưu Ma Trí. Mấy câu nói cực kỳ êm dịu thân mật, khiến người nghe bất giác không tự chủ được nữa, khó mà chống cự lại, quả nhiên muốn theo ý lão.
A Châu giật mình nói:
-Lão gọi chúng ta trở lại, tất không gia hại đâu.
Ðoạn nàng dừng chèo không bơi nữa, trong lòng dường như có vẻ xao xuyến.
A Bích cũng nói:
-Vậy chúng ta quay lại quách.
Ðoàn Dự vì nội lực rất mạnh nên giọng nói Cưu Ma Trí không mê hoặc nổi vội nói:
-Lão bịp đấy! Tin thế nào được?
Lại thấy Cưu Ma Trí tiếp tục gọi bằng một giọng rất hòa hoãn rất êm tai:
-Hai vị cô nương ơi! Công tử nhà các cô đã về tới, cần gặp các cô ngay, các cô mau mau bơi thuyền trở lại.
A Châu nói:
-Vâng!
Rồi bơi thuyền quay đầu lại. Ðoàn Dự nghĩ thầm: "nếu quả công tử Mộ Dung trở về thì chính y lên tiếng gọi A Châu, A Bích hà tất phải mượn lão sư gọi hộ? Ðúng là lão giở phép thu hồn phách cực kỳ lợi hại ra đây. Chàng liền nghĩ được một kế,vội xé mảnh áo đút nút lỗ tai A Châu, A Bích lại.
A Châu định thần được ngay thất thanh la lên:
-Trời ơi! Chết chưa!
A Bích cũng tỉnh táo lại nói:
-Lão sư này biết cả phép thu hồn phách người ta. Ta bị lão lung lạc mất rồi.
A Châu ra sức chèo thuyền nói:
-Ðoàn công tử! Chèo cho mau! chèo cho mau!
Hai người chèo thuyền thẳng vào chỗ dầy đặc hồng lăng. Hồi lâu bên tai không còn vẳng nghe thấy tiếng Cưu Ma Trí gọi nữa. Bấy giờ Ðoàn Dự mới ra hiệu cho hai người móc nút để trong tai ra.
A Châu vỗ ngực thở một hơi dài rồi hỏi:
-Bây giờ tính sao đây?
A Bích đáp:
-A Châu tỷ nương! chúng ta đi đến Khiếu Thiên thôn. Giả tỷ lão hòa thượng có theo tới đó, Lục đại gia quyết không chịu thua sẽ cùng lão chơi nhau đến cùng.
A Châu nói:
-Không được đâu! Lục đại gia tuy võ nghệ cao cường nhưng không có khiếu thông linh quỷ quái bằng Cưu Ma Trí. Thế thì thà rằng cứ lênh đênh trên mặt hồ này, đói bóc hồng lăng hoặc móc ngó sen lên mà ăn, dù có ở đây mười ngày hoặc nửa tháng cũng chẳng hề gì.
A Bích mỉm cười nói:
-Tỷ nương tính thế nào cũng được, song chưa biết ý Ðoàn công tử ra sao?
Ðoàn Dự vỗ tay cười nói:
-Hồ này phong cảnh đẹp, lại có hai vị tỷ nương làm bạn ở đây ngao du mươi ngày, thật sướng hơn tiên.
A Bích cũng trề môi ra cười nói:
-ở đây đi về phía đông nam có đến hàng ngàn hải cảng, hàng trăm vũng vịnh,chi lưu, sông nhỏ cũng nhiều. Trừ bọn chài lưới địa phương ra, không ai tìm được đường lối. Bọn ta đi vào chỗ trăm khúc quanh co trong hồ này, quyết nhiên nhà sư kia không thể đuổi tới nơi được.
Ðoàn Dự đang lúc cao hứng, ra sức bơi thuyền. Mỗi khi đến chỗ rẽ thì hai nàng lại bàn tính một hồi rồi mới ấn định nẻo đi. Chèo thuyền đi một hồi lâu, Ðoàn Dự thoang thoảng ngửi thấy một mùi hoa thơm đặc biệt khác lạ. Lúc mới ngửi thì thấy đầu óc choáng váng nhưng lát sau thì trong người lại khoan khoái dễ chịu. Thuyền càng tiến lên thì mùi hoa thơm lại càng sực nức.
Ðoàn Dự hỏi:
-Hai vị tỷ nương có biết mùi hoa gì đó chăng?
A Bích khẽ đáp:
-Công tử đừng hỏi nữa! bọn ta phải mau mau rời khỏi nơi này!
Ðoàn Dự thấy giọng nói của nàng đầy vẻ sợ hãi, rất lấy làm kỳ. A Châu cũng nói nhỏ bảo A Bích:
-Chúng ta lầm đường mất rồi. Mi bảo rẽ qua bên trái là đúng. Ta lại bảo rẽ qua mé phải mới chết chứ. A Bích mi đã biết rõ, sao còn đi nghe ta?
A Bích đáp:
-Bấy giờ em cũng không dám chắc lắm. Cứ tưởng tỷ nương biết đích hơn, nên mới nghe theo.
Lúc này A Bích tinh thần đã hồi phục, đón lấy mái chèo ở trong tay A Châu,quay thuyền và gắng sức bơi theo lối cũ trở ra.
Ðoàn Dự nghe hai người đối đáp, đoán là trong mùi hoa thơm này tất có điều gì nguy hiểm, chàng toan hỏi lại thì A Châu trông chàng vẫy tay ra hiệu bảo đừng hỏi nữa.
Trời đã tối mịt, Ðoàn Dự trông không rõ nét mặt hai người nhưng cũng biết tình thế rất nghiêm trọng chẳng kém gì lúc Cưu Ma Trí đuổi theo.
A Châu ghé miệng vào tận tai Ðoàn Dự nói thầm:
-Bây giờ tôi lớn tiếng nói chuyện với A Bích, công tử chớ có nói xen vào, phải nằm yên!
Ðoàn Dự gật đầu, đưa mái chèo cho nàng rồi nằm xuống lòng thuyền. Ðêm hôm ấy trời đầy sao lấp lánh, Ðoàn Dự cảm thấy có điều chi kỳ dị mà không nói ra được, bỗng nghe A Châu lên tiếng:
-A Bích muội nương! Chỗ này rất khó nhận đường đi, em phải cẩn thận kẻo lạc lối nghe.
A Bích đáp:
-Vâng! lão sư ấy đuổi bọn mình để hãm hại, mình phải chạy trốn. Giả tỷ mà mình lạc đường, người ta còn bảo mình chịu mệnh công tử cố ý đến đây rắc rối mới khổ chứ.
Hai người nói chuyện sang sảng, tựa hồ để cho người ngoài nghe rõ. Nhưng Ðoàn Dự nghển lên mạn thuyền trông ra thì bốn mặt chỉ thấy toàn lá hồng lăng bát ngát. Ngoài tiếng thuyền chạm vào lá hồng lăng, tuyệt không thấy động tĩnh gì
nữa. Mùi hoa thơm mỗi lúc một ngào ngạt thêm. So với mai côi thì mùi thơm không nồng nàn bằng nhưng so với hoa quế thì nó lại kém bề êm dịu. Thật là một mùi hương khó tả.
Thốt nhiên A Bích cất giọng hát. Nàng hát bài Nguyễn lang quy. Nàng mới hát được vài câu nghe giọng đã run run, phải ngừng một chút cho định thần rồi mới hát tiếp. Tiếng hát mỗi lúc một lên cao vòi vọi nhưng không giấu nổi nỗi phập phồng lo sợ.
Ðoàn Dự ghé lại gần A Châu khẽ hỏi:
-Phải chăng lão sư đó đuổi gần tới nơi?
A Châu vội đưa bàn tay bịt miệng chàng, ra hiệu cho đừng lên tiếng. Nàng nghiêng đầu lắng tai nghe, bốn bề vẫn im lặng như tờ. Bấy giờ mới ghé miệng sát vào tai Ðoàn Dự nói thầm:
-Chúng ta lầm đường mất rồi. Gặp người này còn ghê gớm hơn cả lão sư ban nãy.
Ðoàn Dự nghĩ thầm: "Người ta có câu: tránh nơi sóng cả, ngã nơi Tuần Vường là đúng lắm". Rồi chàng lại nghĩ: "có lẽ hai nàng chưa biết kỹ bản lãnh lợi hại của Cưu Ma Trí đó thôi. Trên đời làm gì còn có người ghê gớm hơn lão? Huống chi đây lại ở cạnh nách sào huyệt nhà Mộ Dung. Khi nào y còn để cho ai ăn ngon ngủ yên được?".
A Bích ca xong khúc hát, không nói gì nữa, lặng lẽ nhìn lên trời, tìm sao Bắc Ðẩu, nhận định phương hướng rồi cùng A Châu ra sức chèo thuyền.. Ðoàn Dự ngoảnh nhìn bốn phía, chỉ thấy mênh mông những nước cùng trời. Tuyệt không có
một con thuyền, một cái nhà, không thấy đâu là bờ bến hay một bóng người nào cả, đến một con chim cũng không có. Vậy mà không biết làm sao hai nàng lại sợ hãi đến thế?
Con thuyền nhỏ đi bồng bềnh trên mặt nước được quãng dài nữa thì đến chỗ hai dòng sông giao nhau. A Châu và A Bích lại thương lượng một hồi và tìm nhận lối đi khi gặp chỗ rẽ. Chàng cũng chẳng hiểu hai nàng lấy gì làm tiêu chuẩn, chỉ biết hai nàng đã bơi thuyền nửa ngày, nửa đêm, có vẻ mệt nhoài, thở lên hồng hộc.
Ðoàn Dự xem chừng A Châu đã kiệt lực rồi, liền đón lấy mái chèo bơi thuyền đỡ nàng một lúc. Hồi lâu bỗng A Bích kêu lên:
-A Châu tỷ nương ơi! chúng ta... sao chúng ta... lại quay về chỗ cũ rồi?
Ðoàn Dự quả nhiên lại ngửi thấy mùi hoa thơm lúc nãy. Thì ra đêm khuya trời tối hai nàng không nhận ra lối đi, chèo quanh quẩn tựa hồ đi theo một lối vòng tròn
khổng lồ, bây giờ lại quay về chỗ ban đầu. Trời đã gần sáng, nét mặt A Bích trở nên bơ phờ, ủ rũ. Ðột nhiên nàng buông mái chèo xuống, đưa tay lên bưng mặt khóc hu hu.
A Châu ôm nàng vào lòng an ủi:
-Không phải là chúng ta cố ý đến đây, chờ gặp Vương phu nhân rồi sẽ bày tỏ chân tình, em đừng sợ gì cả.
Tuy nàng tự cường để vỗ về A Bích mà tiếng nói nàng cũng run run, tpr ra nàng đang trải qua một trận bão lòng kinh hãi.
Giữa lúc ấy, trên không về phía tây nổi lên vài tiếng chim kêu quang quác. Một con chim rất lớn bay tới, toàn thân lông trắng như tuyết, cao lênh khênh như con hạc nhưng không phải hạc. Dường như là một giống thủy điểu. Con bạch điểu này nhằm chỗ thuyền dừng quyện một vòng trên không rồi từ từ bay về góc Tây Bắc.
A Châu nhặt mái chèo lên thở dài nói:
-Không đi không xong rồi! Chúng ta đành tới đó rồi muốn ra sao thì ra.
Nàng bơi thuyền hướng theo con bạch điểu mà đi.
Ðoàn Dự hỏi:
-Có phải con chim đó là sứ giả dẫn đường đó chăng?
A Bích đáp:
-Ðoàn công tử! Công tử là người xa đến, chưa biết quy củ nơi đây. Lúc vào đến Mạn Ðà Sơn, phu nhân bảo làm sao công tử phải nghe vậy, chớ có kháng cự mà khốn.
Ðoàn Dự hỏi:
-Tại sao vậy? Chẳng lẽ chủ nhân trại này lại dã man đến mức không phân biệt phải trái nữa hay sao? Bọn mình lạc đường vào đây thì xin cho ra, chứ làm gì nên tội?
A Bích quầng mắt đỏ hoe đáp:
-Ðoàn công tử không biết. Còn có nhiều chuyện rắc rối bên trong, không thể một lúc mà nói hết ra được. Người ta sở dĩ không cho ai giở lý sự cũng là có cớ. Rút cục chỉ tại lão sư đó mà ra. Nếu lão không đuổi gấp quá thì làm gì đến nỗi mình hoang mang mà đi lầm vào đây?
A Châu vốn tính hoạt bát cười nói:
-Người lành tự nhiên có thiên tướng bảo hộ. Giả tỷ chỉ có hai chị em mình tới đây tất là hỏng bét nhưng có Ðoàn công tử đây là người lành may ra chúng ta thoát nạn cũng chưa biết chừng.
A Bích buồn rầu đáp:
-Em thì lại lo thay cho Ðoàn công tử. Vương phu nhân thấy có đàn ông đến Mạn Ðà sơn trang, chắc người sẽ sai chặt chân khoét mắt. Phu nhân nói sao làm vậy. A Châu tỷ nương ơi! mình đưa công tử đến đây để chàng phải vạ lây.
Nói đến đó, nàng úp hai bàn tay lên mặt, nước mắt tràn qua kẽ ngón tay, rớt xuống từng giọt.
A Châu nói:
-Biết đâu phu nhân chẳng tự nhiên đại phát từ bi hoặc Ðoàn công tử khéo biện bạch, lay chuyển được tấm lòng sắt đá của người mà tha cả ba chúng ta cũng nên.
Ðoàn Dự hỏi:
-Vương phu nhân là người thế nào?
A Bích đưa mắt nhìn A Châu toan nói lại thôi. A Châu vỗ tay vài cái rồi nhớn nhác ngó quanh, không thấy ai bấy giờ mới nói:
-Vương phu nhân đây, về võ công không biết đến đâu mà lường được. Khắp các nhân vật trong võ lâm đều chịu người là đệ nhất. Ngay đến công tử chúng tôi, bản tính không chịu phục ai mà chỉ bội phục có mình phu nhân thôi.
Nàng vừa nói vừa lắc đầu lè lưỡi, lộ ra nhiều vẻ kinh dị. Ðoàn Dự rất lấy làm kỳ tự hỏi: "bọn mình nói chuyện trong thuyền, bốn bề chẳng có một ai. Chẳng lẽ bà Vương phu nhân nào đó có phép thần thông nghe được cả ư?". Bỗng thấy con bạch điểu lúc nãy lại trở về, liệng quanh cái thuyền một vòng. Chim bay nhanh, thuyền bơi châm, nó bay đi bay lại như vậy để chờ. Thuyền cứ trông hút bóng chim bơi theo chừng nửa giờ, qua mấy chỗ vũng biển. Ðoàn Dự nghĩ thầm: "con chim kia bay trên không nên nhận đường lối dễ hơn. Ðằng này bơi thuyền dưới nước, giữa cái hồ mênh mông, dù bản lãnh giỏi đến đâu cũng khó lòng giữ cho khỏi lạc đường".
Thuyền đi đến trước một hàng đăng ken bằng tre chẻ ra vót sẵn. Người Giang Nam thường cắm đăng ngang sông, hồ để nuôi cá, bắt giải. Nước vẫn lưu thông nhưng cá và giải vướng đăng không chui ra được. Thuyền lại sát đăng, tưởng bị chặn lối đi, không ngờ đầu thuyền vừa chạm vào đăng, đăng chìm ngay xuống nước, để hở lối cho thuyền đi qua. Thì ra trên các hàng đăng này có đặt cơ quan tự động mở ra đóng lại được. Qua mấy tầng đăng như vậy thì đến rặng liễu buông rủ xuống nước. Hết rặng liễu, xa xa nhìn thấy trên bờ hồ hoa lá rực rỡ như hoa trà,ánh xuống nước đỏ rực một vùng.
Ðoàn Dự buột miệng khẽ reo lên một tiếng: "ô kìa". A Châu vội hỏi:
-Chi vậy?
Ðoàn Dự chỉ vào bụm cây hoa đáp:
-Ðây là cây sơn trà ở nước Ðại Lý chúng tôi đó. Làm sao ở Thái Hồ cũng trồng được thứ điền trà này nhỉ?
Nên biết rằng thứ sơn trà sản xuất ở Vân Nam có danh tiếng hơn cả nên người ta mệnh danh là điền trà.
A Châu nói:
-Có đúng thế không? tôi tưởng sơn trà nước Ðại Lý không bằng được sơn trà ở Cô Tô chúng tôi đây. Chỗ này là Mạn đà sơn trang, mạn đà la đứng vào bậc nhất thiên hạ, sơn trà nước Ðại Lý của công tử bằng thế nào được?
Ðoàn Dự cho lời bình luận của A Châu là sai. Chàng nghĩ rằng: "nhân vật ở Giang Nam kể ra cũng làm cho người ta phải ngây ngất thật. Nước Ðại Lý có nhiều thứ thua kém nhưng mà bảo sơn trà nước Ðại Lý thua trà Giang Nam thì nhất định không chịu". Chàng thấy A Châu đưa mắt ra hiệu biết rằng gần đến sơn trang rồi.âu là cứ buông xuôi câu chuyện cho êm.
A Châu chèo thuyền lại buộc vào gốc một khóm sơn trà, dừng chân đứng nhìn một hồi. Trên bờ toàn hoa trà đỏ trắng lẫn lộn, không có nhà cửa phòng ốc chi hết.
Ðoàn Dự sinh trưởng ở nước Ðại Lý, mặc dầu sơn trà đối với chàng chẳng có chi là lạ nhưng cũng theo chiều tấm tắc khen ngợi cho qua, trong lòng thầm nghĩ: "sơn trà ở đây tuy nhiều thật, song giai phẩm này đã lấy chi làm quý?".
A Châu kéo ghệch thuyền vào bờ rồi cất tiếng thong thả mềm mỏng nói:
-Tiểu tỳ là A Châu, A Bích ở Tham Hợp trang bên Yến Tử ổ bị kẻ địch đuổi đánh, lầm đường lạc vào nới cấm địa quý trang đây, tội đáng muôn thác. Xin Vương phu nhân mở lượng hải hà bỏ qua đi cho! Bọn tiểu tỳ cảm kích vô cùng.
A Châu dứt lời, trong rừng hoa chưa thấy tiếng người đáp lại, nàng lại tiếp:
-Cùng đi với bọn tiểu tỳ còn có Ðoàn quân là một người khách phương xa đến.
Ðoàn quân chưa từng quen biết công tử bon tiểu tỳ và quả tình không dính líu mảy may gì đến vụ này cả.
A Bích cũng nói:
-Ðoàn công tử đến Cô Tô với mục đích tìm chủ nhân bọn tiểu tỳ để rửa hận, vô tình lạc vào quý trang.
Ðoàn Dự nghĩ thầm: "xem giọng lưỡi hai cô này đều bảo ta là kẻ thù của công tử Mộ Dung chứ không phải bạn thì đủ hiểu rằng giữa chủ nhân khu vực này cùng công tử Mộ Dung có mối bất hòa. Dường như cứ ai là kẻ địch của công tử Mộ Dung thì không đến nỗi họ bị làm khó dễ". Lát sau thấy có tiếng chân bước sột soạt trong rừng hoa rồi một ả tiểu hoàn áo xanh đi ra, trong tay cầm một bó hoa. ả này lớn hơn A Châu, A Bích chừng một vài tuổi, vừa chạy ra bờ hồ vừa cười nói:
-A Châu, A Bích! Các cô này to gan thật! Dám lẻn đến đây dòm ngó chuyện gì?
Phu nhân ta xuống lệnh phải rạch ngang, rạch dọc cái bộ mặt đẹp tựa như hoa ngọc của các cô ra đó.
A Châu trông nét mặt ả đã vững tâm được phần nào, tươi cười hỏi:
-U Thảo tỷ nương đấy ư? Phu nhân vắng nhà phải không?
U thảo cười đáp:
-Phu nhân còn bảo hai cô còn dắt cả chàng trai nào đó đến Mạn Ðà sơn trang vậy phải chặt hai chân gã đi!
Nàng chưa dứt lời đã toét miệng ra cười. A Bích vỗ bụng nói:
-U thảo tỷ nương! có phải chị hăm doạ chúng tôi đó không?
A Châu cười nói:
-A Bích đừng sợ! Cô ta doạ đấy! Phu nhân mà ở nhà thì đời nào cô ả dám cười cợt như vậy? U thảo em ơi! Phu nhân đi đâu vậy?
U Thảo cười nói:
-Lêu lêu! Cô bao nhiêu tuổi mà đòi làm chị ta? Con lỏi này giỏi đoán đó, phu nhân quả không ở nhà.
Rồi ả lại thở dài nói:
-A Châu, A Bích hai em! Mấy khi hai em qua tới đây, ta muốn lưu hai em ở chơi bên này một vài ngày.
A Bích cũng nói:
-Em cũng muốn được đón tiếp chị! U thảo tỷ nương ơi! Bữa nào chị sang chơi bên em? Em thức ròng rã ba ngày ba đêm để tiếp chuyện chị được không?
Bỗng lại nghe tiếng chân bước trên lá cây lạo xạo, một đứa tiểu hoàn nữa đi tới,cười hì hì nói:
-A Châu, A Bích! cô nương muốn mời các chị vào xơi nước.
A Châu nói:
-Hoàng Ly đó hả? Em về trình cô nương qua bên nhà chơi, công tử đi vắng rồi.
Bữa nay chúng ta đi lầm đường thế nào lại lạc vào quý phủ. Cô nương cho uống trà, chúng tôi xin có lời đa tạ cô nương nhé!
Hoàng Ly nói:
-Không được đâu! Cô nương cho gọi hai chị, hai chị không chịu vào thì đừng hòng được "bạch y sứ giả" đưa chị ra khỏi nơi đây.
A Châu cùng A Bích đưa mắt nhìn nhau ra chiều khó nghĩ, A Bích nói:
-Hoàng Ly tỷ nương! chị thật là người thông minh. Cô nương đã cho gọi chị em chúng tôi, chúng tôi đâu dám trái lệnh? Chỉ sợ lần chần phu nhân về đến nhà thì nguy quá.
U Thảo nói:
-Phu nhân đi chơi xa, mới đi hôm qua, đâu có về ngay mà ngại? Các chị còn chưa hiểu tâm sự cô nương hay sao?
A Châu đáp:
-Vâng! A Bích! Thôi chị em chúng mình cũng đành mạo hiểm vào đi!
Hai người kéo thuyền lên bờ. A Bích bảo Ðoàn Dự:
-Ðoàn công tử! Xin công tử hãy đứng đây chờ chúng tôi một lúc. Chúng tôi vào ra mắt chủ nhân xong ra ngay.
Ðoàn Dự đáp:
-Ðược rồi! Các cô đi lẹ lên.
Bố n cô nha hoàn dắt tay nhau cười cười nói nói đi vào rừng hoa. Ðoàn Dự ngồi thuyền chờ lâu, nóng ruột đứng dậy lên bờ nhòm ngó rừng mạn đà la xem có giống hoa gì khác lạ không? nhưng đây chỉ toàn sơn trà không có thứ hoa cỏ gì khác nữa.
Cả những thứ hoa rất thường về mùa xuân mọc khắp nơi như: Khiên Ngưu, Oản đậu, Du Thái mà đây cũng không có. Sơn trà thì nhiều thật nhưng toàn những thứ bình thường, không có loại nào quý cả. Chàng đang ngắm xem bỗng ngửi thấy một mùi hoa thơm phảng phất. Mùi thơm này đượm không ra đượm, lạt không ra lạt,thật khó tả cho ra. Ðúng là mùi hương chàng đã ngửi thấy đêm hôm trước, lúc ngồi thuyền. Chàng tự hỏi: "ở đây không có hoa cỏ gì khác ngoài sơn trà, chẳng lẽ trên đời lại có thứ sơn trà mùi hương kỳ dị thế này?". Chàng nổi tính hiếu kỳ, lần theo phía phát ra mùi thơm mà đi, đi chừng vài chục trượng thấy sơn trà có thêm nhiều loại khác, thỉnh thoảng cũng được vài khóm quý. Chàng đang đi tự nhiên mùi thơm kỳ dị đó biến mất tăm. Chàng đi khắp mọi ngả để kiếm mà tuyệt không ngửi thấy
mùi hương đó nữa, chàng lẩm bẩm: "ta trở về chỗ thuyền đậu thôi! Kẻo A Châu, A Bích trở ra không thấy mình lại nóng ruột". Ðoàn Dự trở gót đi được mấy bước,bỗng kêu lên: "Thôi hỏng rồi". Vì mải để tâm vào chuyện đi kiếm thứ hoa kỳ dị chàng không nhớ lối ra. Chưa biết tìm cách nào để trở về chỗ cũ chàng nghĩ thầm:
"thôi đành ra tới bờ hồ sẽ hay, bất luận là chỗ nào". Thế rồi chàng cứ đi bừa, đi càng lâu thì thấy mình càng lạc lõng. Bất thình lình Ðoàn Dự nghe thấy có tiếng người nói, rõ ràng là tiếng A Châu, chàng cả mừng nghĩ bụng: "ta hãy đợi nàng ở đây một lát, chờ cho nàng nói chuyện xong với người nào đó rồi sẽ kêu nàng cùng về. Bỗng thấy A Châu nói:
-Công tử vẫn được mạnh, ăn uống điều hòa. Trong hai tháng nay công tử luyện môn đả cẩu bổng pháp của Cái Bang. ý chừng người muốn tỷ thí với các nhân vật nơi đó.
Ðoàn Dự nghĩ thầm: "A Châu đang nói chuyện về Mộ Dung công tử với ai đây.
Mình chẳng nên đi sau nghe trộm, phải đi xa ra một chút kẻo họ bảo mình không biết lễ". Giữa lúc đó bỗng thấy tiếng một cô gái thở dài. Tiếng thở dài này lọt vào tai Ðoàn Dự làm cho chàng bất giác toàn thân run bần bật, trái tim nhảy loạn lên,hai má nóng bừng bừng. Chàng tự hỏi thầm: "sao trên đời này lại có tiếng người thở dài nghe êm tai đến thế?". Rồi một giọng u buồn cất tiếng hỏi:
-Chuyến này chàng ra đi có nói là đi đâu không?
Ðoàn Dự mới nghe tiếng thiếu nữ thở dài lòng đã xúc động, giờ lại nghe thêm mấy câu này nữa toàn thân chàng máu như sôi lên sùng sục. Trong lòng vừa cay đắng vừa đau khổ, phần vì ngưỡng mộ, phần vì ghen tuông nói sao cho hết? Chàng lẩm bẩm: "rõ ràng nàng hỏi chuyện công tử Mộ Dung. Nàng đối với gã thân thiết là thế! nhớ mong là thế! công tử Mộ Dung thật là người có diễm phúc.
Lại nghe tiếng A Châu đáp:
-Lúc công tử ra đi có nói là đến Lạc Dương. Lữ đại ca cùng Bao tiên sinh hai người đi theo công tử. Xin cô nương cứ yên lòng không có điều chi đáng ngại.
Thiếu nữ hỏi:
-Các ngươi có coi công tử luyện môn "đả cẩu bổng pháp" chưa? Có thấy chỗ nào khó khăn hoặc chậm chạp không?
A Bích đáp:
-Bổng pháp này công tử đã luyện thành thục lắm rồi, từ đầu chí cuối công tử phát động tựa hồ mây bay nước chảy...
Ðột nhiên thiếu nữ "hứ" lên một tiếng rồi nói tiếp:
-Thế là hỏng rồi! Có phải... chàng sử môn này mau lẹ lắm không?
A Bích đáp:
-Vâng! vậy mà có chỗ chưa được hay sao?
Thiếu nữ nói:
-Dĩ nhiên là hỏng rồi. Phép "Ðả cẩu bổng pháp" có hai thế: thế chiền thì càng chậm càng hay, thế thiểu thì lúc nhanh lúc chậm. Nếu chỉ một chiều đánh mau thì không phát huy được chỗ tinh vi mầu nhiệm của phép này. Vậy các ngươi... các
ngươi có cách nào đưa tin được đến chỗ công tử không?
A Châu tặc lưỡi đáp:
-Bọn tiểu tỳ không biết công tử đến đâu trước? Và hiện giờ họp mặt cùng các bậc trưởng lão ở Cái Bang chưa? Thưa cô nương! vậy ra phép "Ðả cẩu bổng pháp"
mà sử dụng thật mau, có chỗ không ổn hay sao?
Thiếu nữ đáp:
-Dĩ nhiên không ổn rồi, còn có... chỗ gì nữa. Sao lúc chàng... chàng ra đi, không đến đây gặp ta?
Thiếu nữ vừa nói vừa dậm chân ra chiều nóng nẩy, áy náy... Ðoàn Dự nghe xong rất lấy làm kỳ, nghĩ thầm: "ta tưởng khắp thiên hạ, ai cũng kính sợ nhà Mộ Dung ở Cô Tô, thế thì còn ai bì với nhà này được mà sao nghe cô nương đây nói thì dường như công tử Mộ Dung còn phải nhờ cô này truyền dạy võ nghệ cho. Chẳng lẽ một cô thiếu nữ nhỏ tuổi này lại có bản lãnh đến thế kia ư?
Lại thấy thiếu nữ bước lui bước, tới tựa hồ chưa tìm ra được kế gì, rồi nàng lẩm bẩm: "trước mình đã bảo chàng học bộ pháp đó nhưng chàng không chịu, giả tỷ mà chàng biết phép Lăng Ba Vi Bộ ..."
Ðoàn Dự nghe đến bốn chữ Lăng Ba Vi Bộ bất giác kêu lên một tiếng "A ha".
Chàng tự biết mình lỡ lời đưa tay lên bịt miệng thì đã không kịp mất rồi. Thiếu nữ quát hỏi:
-Ai đó?
Ðoàn Dự biết rằng không thể giấu diếm được nữa liền đằng hắng lên vài tiếng rồi đáp:
-Tại hạ là Ðoàn Dự đang ngắm xem rừng trà báu của quý trang, đột ngột tới đây,xin người tha tội cho!
Thiếu nữ nói khẽ bảo A Châu:
-A Châu! Phải chăng đây là cậu cùng đi với ngươi?
A Châu vội đáp:
-Thưa phải! gã này chỉ là anh đồ gàn, cô nương bất tất phải nói đến gã làm gì.
Ta đi ra ngả khác quách.
Thiếu nữ nói:
-Hãy khoan! Ngươi hãy chờ ta viết thư nói rõ mọi điều cốt yếu về phép sử môn "đả cẩu bổng pháp" để các ngươi liệu cách đưa đến cho công tử.
A Châu tỏ vẻ ngần ngại đáp:
-Cái đó... phu nhân đã bảo rồi mà...
Thiếu nữ giật giọng hỏi:
-Sao bọn ngươi chỉ biết vâng lời phu nhân? Không chịu nghe ta phải không?
Nghe câu nói có vẻ hằn học A Châu vội đáp:
-Xin cô nương đừng lộ cho phu nhân biết. Lẽ nào tiểu tỳ lại không tuân lệnh,huống chi lại là việc lợi cho công tử.
Thiếu nữ nói:
-Hai người theo ta về phòng lấy thư nghe.
A Châu đáp:
-Vâng!
Từ lúc Ðoàn Dự thấy thiếu nữ thở dài rồi sau càng nghe nàng nói càng mê đặc.
Giờ thấy nàng toan trở gót về phòng chàng nghĩ bụng: "để cho nàng đi e rằng không còn dịp nào được gặp mặt nữa thì thật là điều hối tiếc suốt đời. Ta đành một liều ba bảy cũng liều, tìm cách ngăn trở để nhìn cho thấy mặt rồi muốn tội tình hay trách mắng gì cũng chịu". Nghĩ vậy chàng bèn lớn tiếng gọi:
-A Bích cô nương ở lại đây với tôi được không?
Chàng vừa gọi vừa rảo bước đi ra. Thiếu nữ thấy chàng sấn sổ bước tới vội la lên một tiếng "ô hay" rồi quay đi. Ðoàn Dự ở trong bụi cây bước ra, chỉ thấy một vị nữ lang mặc áo tơ trắng đang nhìn lên những bông hoa, vẻ người mềm mại, tóc dài bỏ xuống sau lưng, dùng dây tràng buộc cho gọn. Ðoàn Dự mới trông thấy bóng dáng sau lưng nàng, cốt cách đã ra vẻ thần tiên, bên mình dường như có khói mây bao bọc, chứ không ra tuồng khách tục. Chàng liền vái dài nói:
-Tại hạ Ðoàn Dự xin bái kiến cô nương.
Nữ lang dậm chân trái xuống đất gắt:
-A Châu! Các ngươi thật là rắc rối! Ta có chạm mặt với nam giới bên ngoài bao giờ đâu?
Nói rồi đi thẳng về phía trước. Qua mấy khúc quanh người nàng đã che khuất vào trong bụi hoa mất rồi. A Bích nhìn Ðoàn Dự mỉm cười nói:
-Ðoàn công tử! Cô nương này rất khó tính khó nết. Chúng ta chuồn đi thôi.
A Châu cũng mỉm cười nói:
-May nhờ có Ðoàn công tử đến giải vây cho không thì thế nào cũng bị Vương cô nương bắt đưa thư, gửi thiếp rất là phiền phức, có khi nguy hiểm đến tính mạng chị em tôi nữa.
Ðoàn Dự lật đật chạy ra bị nữ lang nói mấy câu làm chàng cụt hứng, tưởng còn bị A Châu, A Bích oán ghét nữa là khác nào ngờ lại được hai nàng cảm ơn, thật là một điều không bao giờ nghĩ đến.
Lúc đó ba người đã ra đến chỗ thuyền đậu, A Châu cầm lấy mái chèo toan bơi thuyền đi thì A Bích nói:
-A Châu tỷ nương! chị em mình không có "bạch y sứ giả" dẫn đường, dễ gì mà mà biết lối ra? đành là phải ngồi đây chờ cô nương viết xong thư. Chúng ta bị tình thế bắt buộc dù phu nhân có biết ra cũng không trách chúng ta được.
A Châu thở dài nói:
-Cái ông sư đó thật là tai hại, nghĩ đến lúc nào lại bực ông ta lúc ấy.
Chưa dứt lời, bất thình lình nổi lên một tiếng hú từ đằng xa đưa lại như tiếng rồng gầm nghe choáng cả tai.
A Châu, A Bích đều cả kinh thất sắc. Ðoàn Dự cũng giật mình lẩm bẩm:
-Tiếng gầm này nghe quen tai. à thôi! chết rồi! Có lẽ là đồ đệ ta, Nam Hải Ngạc Thần sắp tới. Hừ nhưng quyết không phải lão.
Nguyên lúc buổi đầu Ðoàn Dự gặp Nam Hải Ngạc Thần đã nghe tiếng hú này.
Nhưng lúc Nam Hải Ngạc Thần đã đến bên chàng mà chàng vẫn còn nghe tiếng hú râm ran, rồi Nam Hải Ngạc Thần nghe tiếng hú đó hốt hoảng chạy theo.
Bình nhật đã đành A Bích lúc nào cũng có vẻ mặt lo lắng đáng thương nhưng A Châu vốn là người hoạt bát lanh lẹ mà lúc đó chân tay cũng luống cuống, ra chiều sợ hãi vô cùng. A Bích khẽ gọi:
-Ðoàn công tử ơi! phu nhân về tới nơi rồi! Bọn ta đành sống thác mặc trời. Công tử càng tỏ ra vô lễ ngạo ngược với chị em chúng tôi chừng nào càng được việc chừng ấy.
Ðoàn Dự từ khi bỏ Vương phủ lén đi đến nay đã trải bao phen thập tử nhất sinh,đã bao lần gặp nguy hiểm gian nan, chàng nghĩ thầm: "người ta sống chết có số,nếu số phải chết thì dù muốn tránh cũng chẳng được nào thì tội gì mà tỏ ra con người không biết điều đối với hai nàng nhu mì khả ái này?". Chàng liền mỉm cười nhìn hai nàng nói:
-Thà rằng giữ lễ mà chịu chết còn hơn vô lễ để níu lấy cái sống. Này A Châu cô nương ơi! cô bảo tôi là đồ gàn thì quả tôi có cái tính gàn dở của kẻ nhai văn nhấm chữ.
A Châu cũng nhìn chàng thở dài mà kêu trời.
Lúc này trên mặt hồ đã xuất hiện một con thuyền, lướt tới như bay, chớp mắt đã đến gần tới nơi. Chiếc khoái thuyền này chạm hình đầu rồng, miệng há hốc ra, trông mà gớm khiếp. Thuyền vừa cập bến, Ðoàn Dự bất giác la lên một tiếng "trời ơi". Nguyên trên sừng rồng chạm đầu thuyền có treo ba cái đầu lâu lủng lẳng vừa mới chặt ở đâu về, hãy còn đầm đìa những máu, khiến ai trông thấy cũng phải ghê rợn, không dám nhìn lâu. Những răng trong miệng rồng nhô ra cũng dính đầy máu tươi.
A Châu khẽ nói:
-Chắc Vương phu nhân giữa đường gặp giặc nên mới về sớm thế này. Chúng mình thật là xúi quẩy.
Thuyền rồng vừa sắp vào bờ A Châu, A Bích đã đứng dậy khép nép cúi đầu, vẻ mặt cực kỳ nghiêm cẩn.
A Bích nhìn Ðoàn Dự luôn luôn ra hiệu cho chàng đứng dậy.
Ðoàn Dự chỉ mỉm cười lắc đầu nói:
-Bao giờ phu nhân bước ra đầu thuyền lên tiếng, tôi sẽ đứng lên để tỏ lòng kính cẩn là được rồi. Ai lại đường đường nam tử trượng phu mà phải khúm núm bao giờ?
Bỗng thấy tiếng một người đàn bà từ trong thuyền vọng ra:
-Gã trai kia! Mi to gan thật! Sao dám thiện tiện đến Mạn đà sơn trang làm chi,mi lại không biết bất luận gã đàn ông nào đã vào đây đều bị chặt chân ư?
Giọng nói rất oai nghiêm, trong trẻo, ai cũng nghe rõ.
Ðoàn Dự đáp:
-Tại hạ là Ðoàn Dự, lầm đường lạc vào bảo trang, thực không có ý đường đột chút nào, xin nghiêng mình tạ lỗi.
Người đàn bà "hừ" một tiếng rồi không nói nữa. Thuyền áp mạn xong, hai ả tỳ nữ áo xanh ở trong chui ra, một ả phi thân lên sừng rồng, loáng một cái đã nhấc ba chiếc đầu lâu nhảy xuống rất lẹ làng.
Ðoàn Dự thấy hai ả cùng đeo trường kiếm lẩm bẩm: "thị nữ còn lợi hại thế này thì bà chủ chắc là ghê gớm lắm. Mình cũng chỉ có mỗi cái thủ cấp, cắt thì cắt phứt đi cho xong". Chàng nghĩ tới câu: "đến chết là cùng", rồi trong bụng thản nhiên như không.
Người đàn bà lại cất tiếng gọi:
-A Châu, A Bích, hai con nhãi kia cũng đến đó hả? Cái thằng lỏi Mộ Dung Phục điều hay không học, chỉ chuyên dở cái trò yêu quái.
A Bích thưa:
-Khai bẩm phu nhân! Tiểu tỳ bị kẻ địch đuổi đánh, đêm khuya trời tối đã lầm đường, vô tình lạc vào đây. Công tử tiểu tỳ ra đi rồi. Việc tiểu tỳ lạc đến đây, công tử quả không biết tý gì.
Nàng không tỏ vẻ nơm nớp lo sợ thì ra con người ta đã đến cùng đường tự nhiên đâm liều, nàng cứ thẳng thắn biện bạch.
Tiếng ngọc đeo loảng xoảng vang lên, trong thuyền thị nữ áo xanh xếp hàng đôi đi ra, lưng đeo trường kiếm, lưỡi kiếm sáng loáng, ánh kiếm lập loè tựa hoa bay.
Bọn này tám đôi, cộng cả hai ả ra trước nữa là mười tám người. Sau cùng là một vị nữ lang ăn mặc ra kiểu khách cung phi.
Ðoàn Dự vừa nhìn thấy tướng mạo nữ lang,không thể nhịn được, bất giác la lên một tiếng kinh dị, líu cả lưỡi lại, miệng há hốc ra tựa hồ như lạc vào cõi mộng.
Nguyên vị nữ lang này mình mặc áo dài bằng lụa trắng, từ y phục cho đến đồ trang sức hệt như pho ngọc tượng trong thạch động bên nước Ðại Lý. Có điều nữ lang này tuy đẹp như vậy nhưng đã đứng tuổi trạc độ tứ tuần còn pho tượng kia là một thiếu nữ chừng 18, 19 tuổi.
Ðoàn Dự nhìn kỹ lại thì vị nữ lang này chỉ khác pho tượng ở chỗ nhiều tuổi hơn nên vẻ mặt dầy dạn phong trần, còn ngoài ra không khác tý gì, càng nhìn lâu lại càng giống hệt, khác nào bà này là chị mà pho tượng kia là em.
A Châu, A Bích thấy Ðoàn Dự cứ giương mắt nhìn phu nhân trừng trừng có vẻ cực kỳ vô lễ, trong lòng đều ngấm ngầm kinh sợ, luôn luôn giơ tay ra hiệu nhắc chàng đừng nhìn nữa. Nhưng mắt chàng tựa hồ dán chặt vào mặt phu nhân.
Về Đầu Trang Go down
Oz Vessalius
Tướng Quân
Tướng Quân
Oz Vessalius

Tổng số bài gửi : 95
Điểm Thưởng : 5149
Độ Tin Tưởng : 104
Join date : 05/01/2011

Thiên Long Bát Bộ - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ   Thiên Long Bát Bộ - Page 2 I_icon_minitimeThu Jan 06, 2011 5:29 pm

Hồi 30

Chơi Hoa Ðã Dễ Mấy Người Biết Hoa
Vương phu nhân nói:
-Gã này vô lễ. Trước hết chặt chân gã rồi sẽ móc mắt và cắt lưỡi gã đi.
Một ả thị nữ cao lớn, nước da ngăm ngă m khom lưng đáp:
-Xin vâng!
Ðoàn Dự lo thầm: "họ làm thế này thì giết mình đi còn hơn". Ðằng này họ chặt chân, móc mắt, cắt lưỡi, sống không sống được, chết chẳng chết cho, cái đó mới thực khổ cho mình". Ðến bây giờ chàng quả thấy trong lòng sợ hãi. chàng quay đầu lại nhìn A Châu, A Bích một lần nữa thì thấy hai mặt xám như gà cắt tiết, người đứng đờ ra như tượng gỗ.
Phu nhân lên bờ rồi, hai tên thị nữ áo xanh ở thuyền ra sau rốt, trong tay đều cầm đầu dây lôi một chàng thanh niên mi thanh, mục tú, có vẻ là con nhà giàu sang và một ngườ i nữa, ngoại hiệu là Nộ Giang Vương Tần Nguyên Tôn. Lúc Tần
đến vây đá nh Mộc Uyển Thanh thì oai phong là thế mà bây giờ bị trói chặt, lão cúi gầm mặt xuống chẳng khác gì cái xác không hồn hay như cá nằm trên thớ t tuỳ người muốn băm vằm mổ xẻ gì thì làm.
Ðoàn Dự rất lấ y làm kỳ tự hỏi: "ông này ở Vân Nam sao cũng bị Vương phu nhân bắt về đây?".
Bỗng nghe Vương phu nhân quay sang hỏi Tần Nguyên Tôn:
-Rõ ràng mi là người nước Ðại Lý, làm sao không chịu nhận đi?
Tần Nguyên Tôn đáp:
-Tôi ở Vân Nam, quê quán tôi không thuộc về nước Ðại Lý.
Vương phu nhân lạ i hỏi:
-Nhà ngươi cách nướ c Ðại Lý bao xa?
Tần Nguyên Tôn đáp:
-Hơn bốn trăm dặm.
Vương phu nhân nói:
-Chưa đầy năm trăm dặm, thế cũng là người Ðại Lý rồi. Ðem y chôn sống dưới gốc Mạn đà la để bón cho cây.
Tần Nguyên Tôn kêu lên:
-Nhưng tôi phạm tội gì mới được chứ? Nếu không nói rõ thì chết cũng không nhắm mắt.
Vương phu nhân cười lạt đáp:
-Cứ là người Ðại Lý hoặc người họ Ðoàn mà gặp ta là ta chôn sống, chỉ có thế thôi. Tuy ngươi không phải ở Ðại Lý, nhưng là người lân cận nước Ðại Lý thì cũng thi hành như nhau.
Ðoàn Dự lẩm bẩm: à ra mụ này nói có vẻ châm chọc mình. Ta chẳng cần chờ mụ hỏi, cứ nhận trước đi cho rồi. Nghĩ vậy chàng lớn tiếng nói:
-Ta là người nước Ðại Lý, lại chính trong họ Ðoàn. Ngươi muốn chôn sống ta thì hạ thủ ngay đi!
Vương phu nhân lạnh lùng nói:
-Ngươi đã báo danh rồi. Tên là Ðoàn Dự chứ gì? được lắm! Người họ Ðoàn nước Ðại Lý đâu có được chết dễ dàng thế?
Phu nhân vẫy tay một cái, tên thị nữ kéo Tần Nguyên Tôn đi. Nhưng Tần vừa bị điểm huyệt vừa bị trọng thương, không sao kháng cự được, lão kêu to lên:
-Thế gian sao lại có cái luật lệ kỳ dị như vậy? Mấy trăm vạn nhân dân nước Ðại Lý liệu có giết hết được không?
Lão kêu gào thế nào cũng mặc, thị nữ lôi tuột lão đi vào rừng trà mỗi lúc một xa,tiếng la cũng nhỏ dần.
Phu nhân nghiêng đầu đi một chút nhìn chàng thanh niên mày thanh, mắt sáng hỏi:
-Mi có điều chi muốn nói nữa chăng?
Chàng thanh niên vội quỳ rạp xuống đất, dập đầu lạy luôn mấy cái nói:
-Gia phụ làm quan tại triều, dưới gối chỉ có mình tôi là con. Xin phu nhân tha mạng cho. Dù phu nhân muốn điều chi, gia phụ cũng nhất định vâng theo.
Vương phu nhân lạnh lùng đáp:
-Cha mi làm quan lớn trong triều, lẽ nào ta không biết? Ngươi muốn sống cũng chẳng khó gì. Chỉ có điều hôm nay mi phải về nhà giết vợ con đi, rồi sáng mai đem đủ sáu lễ cưới Miêu thị là người đã có tư tình với mi. Mi có bằng lòng không?
Chàng thanh niên đáp:
-Về việc đang tay... chém giết vợ con, tôi không dám làm. Còn việc cho mối lái và cưới xin đàng hoàng để lấy Miêu thị thì song thân tôi nhất định không chịu.
Không phải là tôi...
Chàng chưa dứt lời phu nhân đã ra lệnh:
-Ðem gã chôn sống đi!
Tên thị nữ dắt chàng lúc nãy chỉ "vâng" một tiếng rồi kéo chàng đi.
Chàng thanh niên sợ run bắn người vội nói:
-Tôi... tôi xin tuân mệnh.
Vương phu nhân nói:
-Tiểu Thuý! Mi áp giải gã về thành Cô Tô và chính mắt mi phải nhìn thấy rõ gã ra tay giết vợ, cùng Miêu cô nương thành thân rồi hãy về đây phục mệnh.
Tiểu Thuý vâng lời, lôi chàng bỏ xuống chiếc thuyền nhỏ Ðoàn Dự đang ngồi.
Chàng thanh niên miệng vẫn năn nỉ:
-Xin phu nhân mở lượng từ bi, phu nhân không có thù oán gì với vợ tôi, lại không quen biết Miêu cô nương. Tôi cũng chưa từng quen biết phu nhân, hà tất phu nhân bắt tôi giết vợ để lấy người khác làm chi? Từ nay tôi không dám làm
điều gì để đắc tội với phu nhân.
Vương phu nhân nói:
-Mi đã có vợ con, sao còn đi dùng lời ngon ngọt để chàng màng với các cô gái khác? Ta không biết thì thôi, một khi đã biết ra ta đều xử theo đường lối này. Vả mi có phải mới phạm một lần này mà thôi đâu? Còn oán hận gì nữa? Tiểu Thuý vụ này là vụ thứ mấy rồi hả?
Tiểu Thuý đáp:
-Những chỗ tiểu tỳ quen biết như những vụ xảy ra ở Ðan Dương, Vô Tích, Gia Hưng cả thảy bảy vụ. Còn những vụ nào nữa thì phu nhân hỏi Tiểu Lan, Tiểu Thi sẽ rõ.
Chàng công tử nghe mà bủn rủn cả người, luôn miệng kêu than.
Tiểu Thuý buông mái chèo, bơi thuyền đi luôn.
Ðoàn Dự thấy Vương phu nhân hành động cực kỳ khốc liệt, không đếm xỉa đến lý lẽ thì miệng há hốc ra, mắt mở trừng trừng như người sắp nổi cơn điên. Trong lòng chàng vẫn quanh quẩn với ý nghĩ: "sao lại có con người vô lý đến như thế?".
Bất giác chàng buột miệng la lên:
-Có lý nào thế được? Có lý nào thế được?
Phu nhân "hừ" một tiếng rồi nói tiếp:
-Mi còn hỏi việc thiên hạ có lý nào thế được ư? Này này ta bảo còn nhiều việc hơn thế nữa là khác.
Ðoàn Dự vừa thất vọng lại vừa khó chịu. Chàng nhớ lại bữa trước chàng vào thạch động gần sông Thương Lan, thấy pho tượng thần tiên mà chàng xiết bao ngưỡng mộ, bây giờ chàng thấy Vương phu nhân tướng mạo giống pho ngọc tượng như đúc mà hành vi chẳng khác gì yêu ma quỷ quái.
Ðoàn Dự đang cúi đầu lầm lỳ chán nản thì bốn con nữ tỳ chui vào thuyền bê ra bốn chậu hoa. Chàng vừa trông thấy, tự nhiên tinh thần lại thấy phấn khởi. Nguyên bốn chậu hoa này đều là những thứ sơn trà rất hiếm. Khắp thiên hạ đều ca tụng sơn trà Ðại Lý là quý hơn hết. Trong phủ Trấn Nam Vương không biết bao nhiêu là sơn trà có danh tiếng thì bốn chậu trà này cũng đứng vào hàng nhất trong phủ. Từ thuở nhỏ Ðoàn Dự xem trà đã quen. Lúc rồi chàng thường ngồi nghe thợ làm trà bàn tán phê bình về tính chất cùng ưu liệt điểm của từng thứ trà. Chàng không học tập nghề trồng trà nhưng trong lòng cũng thuộc như cháo, khác nào con nhà nông phân biệt lúa má hay con cháu ngư ông sành sỏi về các loại cá tôm? Lúc trước chàng đã đi lại mấy dặm để ngắm xem rừng trà mà chưa thấy có một gốc trà nào vào hàng giai phẩm, trong lòng chàng đã nghĩ đến cái tên "mạn đà sơn trang" đặt cho khu trại này thật uổng.
Bỗng nghe Vương phu nhân gọi:
-Tiểu Trà! Bốn chậu trà "mãn nguyệt" này khó kiếm lắm đấy! Mi phải trông nom chăm chút nghe!
ả thị nữ tên gọi Tiểu Trà đáp:
-Vâng!
Ðoàn Dự nghe giọng hách dịch kiêu điệu thì hề hề cười lạt. Vương phu nhân không thèm nói gì đến chàng lại dặn tiếp:
-Ði trên mặt hồ gió to, bốn chậu trà để luôn trong thuyền mấy ngày, thiếu ánh mặt trời chiếu vào, mi phải đem ra phơi nắng và gia công bón vào.
Tiểu Trà lại "vâng" một tiếng.
Bây giờ thì Ðoàn Dự lớn tiếng cười ha hả. Vương phu nhân nghe tiếng cười có vẻ hỗn xược hỏi:
-Mi cười gì?
Ðoàn Dự đáp:
-Ta buồn cười cho mi đã chẳng biết tý gì về sơn trà lại ưa trồng trà. Những thứ trà quý thế kia lọt vào tay ngươi thật là uổng, chẳng khác gì chim cú đậu cành mai.
Vương phu nhân nổi giận nói:
-Mi bảo ta không hiểu sơn trà, dễ thường cái ngữ mi hiểu được chăng?
Rồi dường như phu nhân sực nhớ ra điều gì lẩm bẩm: ừ mà gã này là con cháu họ Ðoàn nước Ðại Lý, không chừng gã hiểu sơn trà cũng nên. Nghĩ vậy thì nghĩ nhưng phu nhân vẫn ra vẻ kiêu kỳ:
-Mi không nghe nói bản trang đây xưng danh "mạn đà sơn trang" hay sao? Và không thấy khắp sơn dã trà mạn đà chỗ nào cũng tốt như rừng đấy ư?
Ðoàn Dự cười lạt đáp bằng giọng khinh khỉnh:
-Tuồng chi rừng mạn đà của ngươi chẳng khác chi giống người vai u thịt bắp, vứt đâu mà chẳng to chẳng lớn? Ta nói là nói bốn chậu chà này này, nếu ngươi trồng được nó tươi tốt thì ta quyết không phải người họ Ðoàn.
Vương phu nhân vốn rất ưa hoa trà, không kể tốn phí, đi tìm khắp nơi để mua giống quý nhưng cứ đem về Mạn đà sơn trang trồng thì các thứ trà hiếm có chỉ được một năm hay dăm bảy tháng rồi sinh bệnh mà chết. Phu nhân thường buồn
phiền về những vụ này. Giờ thấy Ðoàn Dự nói vậy, không giận mà lại mừng thầm,tiến lại hai bước hỏi:
-Bốn chậu trà này có gì đặc biệt? Muốn trồng cho tươi tốt phải làm thế nào?
Ðoàn Dự nói:
-Nếu ngươi muốn thỉnh giáo thì phải có đủ lễ nghi, còn người muốn làm oai làm phước thì chặt chân ta trước rồi hỏi cũng chưa muộn mà.
Vương phu nhân tức mình nói:
-Mi muốn chặt chân phỏng có khó gì? Tiểu Thi đâu! Mi đem chặt chân trái gã đi nghe!
Ả nữ tỳ tên gọi Tiểu Thi "vâng" một tiếng rồi chống kiếm bước ra.
A Bích vội la lên:
-Thưa phu nhân! Không nên chặt chân Ðoàn quân. Cậu là người rất quật cường,thà chết chứ không chịu nói đâu.
Thực ra Vương phu nhân cũng chỉ hăm dọa chàng mà thôi, liền giơ tay trái lên,Tiểu Thi vội dừng bước.
Ðoàn Dự cười nói:
-Sao không chặt hai chân ta để chôn bên gốc bốn khóm bạch trà này để bón cho tốt? Bốn khóm trà này quý vô cùng, hoa nó lớn bằng miệng bát chậu. Ha ha thật là thứ trà rất đẹp, rất quý.
Trong lòng Vương phu nhân chỉ mong có thứ trà quý nhưng nghe giọng lưỡi chàng toàn là bướng bỉnh, phu nhân không biết nói thế nào, ngẫm nghĩ hồi lâu rồi bảo:
-Mi chỉ toàn nói ba hoa. Ta hỏi mi: bốn chậu bạch trà của ta quý thì quý ở chỗ nào? Mi nói cho ta nghe thử! Nếu đúng ta sẽ theo lễ đối đãi với mi cũng chưa muộn.
Ðoàn Dự đáp:
-Vương phu nhân! Ngươi bảo bốn chậu bạch trà này tên là "mãn nguyệt" là láo toét. Một thứ tên gọi "Hồng trang tố lý", một thứ là "trảo phá mỹ nhân kiểm"...
Phu nhân lấy làm lạ ngắt lời:
-"Trảo phá mỹ nhân kiểm"? tên trà gì mà kỳ thế? Vậy chậu trà nào có tên thế?
Ðoàn Dự nói:
-Ngươi muốn thỉnh giáo ta thì phải theo đúng lễ ta mới chỉ bảo cho.
Vương phu nhân không biết làm thế nào nhưng thấy mình vô tình lấy được mấy khóm trà có những tên đặc biệt trong lòng hớn hở vui mừng liền mỉm cười nói:
-Hay lắm! Tiểu Thi đâu! Mi bảo nhà bếp sửa tiệc tại lầu Vân Cẩm để ta khoản đãi Ðoàn tiên sinh nghe!
Tiểu Thi vâng dạ đi ngay. A Châu, A Bích chỉ nhìn nhau. Hai nàng thấy Ðoàn Dự chẳng những không chết lại còn được Vương phu nhân tiếp đãi vào hạng thượng tân thì khác nào như mơ mộng.
Phu nhân quay lại dặn ả thị nữ cầm ba cái đầu lâu:
-Mi đem ba cái thủ cấp này chôn xuống bên khóm hoa hồng trước lâu Hồng Hà.
Thị nữ vâng lệnh đi ngay, Vương phu nhân quay lại nói với Ðoàn Dự:
-Nào xin mời Ðoàn công tử lên đây!
Ðoàn Dự đáp:
-Vãn sinh mạo muội! Xin hiền chủ nhân thứ lỗi.
Vương phu nhân nói:
-Ðại hiền giá lâm khác nào rồng đến nhà tôm?
Hai người vừa đối đáp những câu khách sáo vừa đi rất ung dung, khác hẳn lúc nãy, tính mạng Ðoàn công tử dường như ngàn cân treo đầu sợi tóc. A Châu, A Bích theo sau. Hai người biết tính Vương phu nhân hốt hỷ hốt nộ, nói cười đấy rồi trở mặt ngay đấy nên trong lòng vẫn phập phồng lo sợ.
Vương phu nhân dẫn Ðoàn Dự đi qua một chiếc cầu đá, theo con đường chật hẹp đến trước một toà lầu nhỏ. Ðoàn Dự ngẩng đầu lên trông thấy dưới mái hiên có treo tấm biển đề ba chữ vàng: "Vân Cẩm lâu". Bốn mặt toà lầu này trồng toàn hoa trà. Những bông trà ở đây đem so với trà bên Ðại Lý chỉ đáng đứng vào hàng thứ ba, thứ tư trở xuống. Ðình tạ, lầu các cực kỳ lịch sự mà cỏ hoa lại tầm thường nên mất cả vẻ tương xứng.
Vương phu nhân lộ vẻ đắc ý hỏi Ðoàn Dự:
-Ðoàn công tử! Bên quý quốc nhiều trà thật nhưng có lẽ còn thua bên này.
Ðoàn Dự gật đầu đáp:
-Vâng! bên Ðại Lý quả không trồng những thứ trà này.
Vương phu nhân lại càng tự đắc hỏi:
-Vậy ư?
Ðoàn Dự đáp:
-Vì bên nước tôi từ kẻ dân dã, ngu phu tục tử cũng rất sành về các loại trà. Họ cho trồng những thứ trà tạp nham này làm cảnh chơi sẽ làm mất cả phẩm giá con người.
Vương phu nhân tức thời biến sắc hỏi:
-Công tử nói sao? Những trà của ta đây là những thứ không ra gì? Thế thì công tử khinh người quá!
Ðoàn Dự đáp:
-Phu nhân không tin tôi thì đó là quyền của người.
Chàng vừa nói vừa chỉ một khóm hoa trà có vân ngũ sắc trước lầu nói tiếp:
-Tỷ như khóm trà này phu nhân cho là quý lắm! Chà cái lan can bên cạnh mới thực là đẹp. Chàng tấm tắc khen cái giàn hoa đẹp còn chính cây hoa lại không đếm xỉa gì đến, có khác gì người bình phẩm chữ viết chỉ khen mực đen bóng mà không đả động đến nét chữ. Khóm hoa trà này có bông hồng, bông trắng, bông tía, bông vàng rất là sặc sỡ, trước nay Vương phu nhân vẫn cho là quý báu lắm giờ xem Ðoàn Dự có ý mỉa mai thì tỏ vẻ không bằng lòng.
Ðoàn Dự hỏi:
-Thưa phu nhân! Miệt Giang Nam gọi tên thứ hoa này là gì?
Vương phu nhân đáp:
-Ở đây không có tên riêng, chỉ gọi là ngũ sắc trà hoa.
Ðoàn Dự nói:
-Bên Ðại Lý chúng tôi gọi nó là "lạc đệ tú tài".
Vương phu nhân bĩu môi nói:
-Tên gì mà khó nghe thế? Chẳng qua là công tử muốn đặt ra vậy thôi. Khóm hoa này đủ mầu mỹ lệ đường hoàng, có vẻ gì gọi là cậu tú hỏng thi đâu?
Ðoàn Dự nói:
-Phu nhân thử đếm coi! Khóm trà đó có bao nhiêu kiểu hoa khác nhau?
Vương phu nhân đáp:
-Ta đã đếm rồi! ít ra cũng có đến 15, 16 thứ.
Ðoàn Dự nói:
-Cả thảy có 17 thứ mới đúng. Bên Ðại Lý tôi có thứ trà kêu bằng "thập bát học sĩ". Ðó là thứ quý nhất thiên hạ. Cả khóm có 18 bông mà mầu sắc không bông nào giống bông nào: hồng thì toàn hồng, tía cũng toàn tía, chứ không hỗn tạp. Về hình dạng cũng khác nhau, mỗi bông có một vẻ đẹp riêng. Cả 18 bông nở cùng một lúc,tàn tạ cũng trong một giờ. Phu nhân đã được xem chưa?
Vương phu nhân lắc đầu đáp:
-Thiên hạ có thứ trà quý thế kia ư? Tôi chưa từng nghe thấy ai nói đến.
Ðoàn Dự lại nói tiếp:
-Sau hạng "thập bát học sĩ", còn có những thứ kém đi từng bậc một, tỷ như "bát tiên quý hải", một gốc sinh ra tám bông hoa khác nhau, "thất tiên nữ" có bảy bông,"phong trần tam hiệp" có ba bông, "nhị kiều" có hai bông một trắng một hồng. Tất cả các bông hoa phải thuần một sắc, nếu hoa hồng có pha mầu trắng, hoặc hoa trắng có pha sắc tía đều là hạng kém.
Vương phu nhân vừa nghe vừa gật đầu. Ðoàn Dự lại nói tiếp:
-Riêng về thứ "phong trần tam hiệp" lại chia ra làm hai: hạng chánh và hạng phó. Trong ba bông thì bông tía phải lớn hơn hết tượng trưng cho Cầu nhiêm Khánh, bông trắng thứ nhì tượng trưng cho Lý Tĩnh, bông hồng đẹp và nhỏ nhất
tượng trưng cho Hồng phất Nữ. Nếu bông hồng lớn hơn hai bông kia là hạng phó,như thế là giá trị kém đi nhiều.
Vương phu nhân ngồi nghe ra chiều thú vị, than rằng:
-Ngay hạng phó tôi cũng chưa được thấy qua chứ đừng nói đến hạng chánh.
Ðoàn Dự lại trỏ thứ trà bông ngũ sắc phê bình:
-Luận về tư cách loại này so với "thập bát học sĩ" thì còn thiếu một bông, ngoài ra các mầu sắc lại còn bác tạp, không được thuần nhất, bông to bông nhỏ, hay nở sớm, nở muộn không đều phỏng có khác chi bì phấn với vôi? tỷ như sĩ tử văn bài kém cả phân điểm, lẽ tất nhiên thi rớt nên mới có cái tên "Lạc đệ tú tài".
Vương phu nhân nghe có lý thích quá, bật cười nói:
-Kể ra đúng đấy. Nhưng cái tên có vẻ mỉa mai khinh bạc.
Vương phu nhân nghe tới đây biết Ðoàn Dự rất sành sỏi về sơn trà đem lòng tín phục. Phu nhân dẫn chàng lên lầu "cẩm vân", chẳng mấy chốc đã thấy gia nhân bày tiệc rượu. Các món ăn của A Bích mời chàng thì lấy sự đơn giản tinh khiết,
khéo tay khéo chân làm sở trường còn tiệc của Vương phu nhân lại chú trọng về những món ăn trân tu làm sang. Nhưng Ðoàn Dự đã sinh trưởng ở nơi Ðế Vương đài các nên thứ gì chàng cũng coi là thường, chàng có vẻ thích những món ăn của A Bích hơn.
A Châu, A Bích được các tỳ nữ bồi tiếp và ăn uống riêng biệt ở chỗ khác. Vương phu nhân đối với Ðoàn Dự rất mực cung kính. Bà ngồi chỗ dưới để bồi tiếp chàng.
Rượu đã ba tuần Vương phu nhân hỏi:
-Vừa rồi công tử cho nghe những lời bình phẩm xác đáng về các thứ trà tôi rất đồng ý, còn bốn chậu trà tôi mới lấy về đây thì những thợ trồng hoa ở đất Cô Tô này kêu bằng trà "mãn nguyệt" mà công tử lại bảo một chậu là "Hồng trang tố lý",một chậu "mỹ nhân trảo phá kiếm", vậy có những điểm nào để phân biệt? Xin công tử nói rõ cho biết!
Ðoàn Dự nói:
-Chậu hoa trắng mà lớn có vân đen nho nhỏ mới kêu là "mãn nguyệt" những vân đen đó tượng trưng các cành quế ở cung trăng. Chậu hoa cánh trắng mà có vân hồng gọi là "hồng trang tố lý". Cánh trắng mà có điểm một tia đỏ nhỏ như sợi tơ là "mỹ nhân trảo phá kiếm". Thứ giống như "mỹ nhân trảo phá kiếm" nhưng cánh có nhiều tia hồng thì gọi là "ỷ lan kiều". Phu nhân thử nghĩ coi: đã là mỹ nhân thì phải thuần nhã ôn nhu, trên má lỡ tay cào toạc ra một dây máu thì chả hại gì nhưng khắp mặt sây xát, tỏ ra đã bao phen cùng người xô xát thì còn đâu là vẻ mỹ nhân?
Vương phu nhân đang chăm chú nghe, thốt nhiên sa sầm nét mặt quát lên:
-Quân này to gan thật! Mi dám mạt sát ta ư?
Ðoàn Dự cả kinh:
-Khi nào tôi dám thế? Tôi có mạo phạm phu nhân ở chỗ nào đâu?
Vương phu nhân hỏi:
-Ngươi nghe ai sai khiến đến đây nói hươu nói vượn để nhục mạ ta? Ai bảo mi đàn bà học võ công là mất vẻ mỹ miều? Nhuần nhã ôn nhu thì đã hơn ai?
Ðoàn Dự giật mình đáp:
-Vãn sinh nói đây chỉ là theo lẽ thông thường. Thiếu gì đàn bà con gái giỏi võ mà vẫn kiều diễm đoan trang?
Không ngờ câu nói này đã làm cho Vương phu nhân chối tai hơn. Bà hỏi vặn:
-Ta có đoan trang hay không?
Ðoàn Dự đáp:
-Ðoan trang hay không thì phu nhân tự biết, vãn sinh đâu dám nói càn. Ðại khái những việc như bắt người ta giết vợ để đi lấy vợ khác người đoan trang không làm.
Chàng nổi cơn bực tức nên mấy câu sau chàng không kiêng nể gì nữa. Vương phu nhân khẽ đập tay ba cái, ba ả thị nữ vội chạy lên lầu, bỏ thõng tay đứng chờ lệnh. Vương phu nhân nói:
-Bọn mi dẫn tên này đi tưới hoa.
Bọn thị nữ vâng lời. Phu nhân quay lại bảo Ðoàn Dự:
-Ngươi đã ở nước Ðại Lý, lại là người họ Ðoàn đáng chết lắm nhưng hiểu biết tính chất các loại trà vậy ta hãy tạm để tội chết lại, phạt ngươi phải trông nom bón tưới những khóm trà ở xung quanh trang, nhất là bốn chậu trà mới lấy về, lại càng phải trông nom cẩn thận. Ta bảo cho ngươi biết trước nếu trong bốn khóm trà này mà ngươi để chết một khóm sẽ bị chặt một tay, chết hai khóm sẽ bị chặt hai tay,chết hết bốn khóm thì chân tay sẽ bị chặt hết đó.
Ðoàn Dự cười nói:
-Còn trường hợp bốn khóm trà sống cả thì sao?
Vương phu nhân đáp:
-Nếu bốn khóm trồng được tươi tốt cả thì ngươi phải kiếm những giai phẩm như "thập bát học sĩ", "bát tiên quá hải", "Thất tiên nữ", "nhị kiều" mỗi thứ mấy cây,không kiếm được cho ta sẽ bị móc mắt.
Ðoàn Dự nói:
-Thế thì mụ giết quách ta đi còn hơn. Hôm nay chặt tay, ngày mai móc mắt, ta chịu sao nổi?
Vương phu nhân quát mắng:
-Tên này giỏi thật, trước mặt ta mà dám buông lời càn rỡ! Chúng bay lôi cổ nó đi!
Ba ả thị nữ chạy lại, hai ả túm đằng trước, còn một ả phía sau đẩy đi. Ba ả này đều có võ, Ðoàn Dự không thể kháng cự lại được đành để bọn thị nữ kéo xuống lầu, đưa đến một chỗ trong vườn hoa. Một ả đưa cho chàng cái xuổng xới đất, một ả lấy cho chàng cái bình tưới và bảo chàng:
-Ngươi đã nghe rõ lời phu nhân dặn bảo. Thôi chịu khó ở đây trồng cây tưới hoa để bảo toàn sinh mạng. Thế là đại phước lắm đó. Những chàng trai đã đặt chân lên Mạn đà sơn trang chưa có ai sống mà trở về đấy nhé.
Một ả nữa nói:
-Ngươi chỉ biết việc ở đây trồng tỉa sơn trà, đừng len lỏi vào các nơi cấm địa mà nguy đó! Nếu không nghe lời ta tức là tự đi tìm lấy cái chết không ai cứu được đâu.
Ba ả thị nữ dặn dò cẩn thận rồi mới bỏ đi. Ðoàn Dự đứng thừ người ra, chàng lâm vào tình trạng khóc dở mếu dở. Tại nước Ðại Lý chàng ở vào địa vị thế tử, phụ thân chàng là Trấn Nam Vương, một ngày kia lên kế vị Bảo Ðịnh Ðế, thì tự nhiên chàng lên bậc Hoàng thái tử, có ngờ đâu bị người bắt đem xuống Giang Nam định đốt, định giết, toan chặt chân tay, móc mắt. Rồi bây giờ bị người bắt ép làm kẻ trồng cây tưới hoa. Tuy nhiên tính chàng bình dị vui vẻ, lúc ở nhà tại hoàng cung cũng như ở Vương phủ thường nhật chàng vẫn xem thợ sửa hoa cắt cỏ, xới đất bón cây rồi cùng bọn thợ cười cười nói nói. Chàng đang ở địa vị công tử vương tôn, giờ phải xuống làm nghề hạ tiện nhưng may chàng vốn tính linh lợi vui tươi nên dù gặp nghịch cảnh đầy đoạ chàng có âu sầu chăng nữa cũng chỉ được một lúc rồi lại cao hứng như thường. Chàng lại khai thác nguồn hứng thú ở ngay cái việc hiện tại đang đẩy vô mình. Chàng lý luận: lúc ta vào thạch động đã hạ bái thần tiên tỷ nương nhận làm thầy. Nay Vương phu nhân tướng mạo giống thần tiên tỷ nương,bất quá phu nhân nhiều tuổi hơn mà thôi, thế thì ta thờ phu nhân làm sư phụ cũng được chứ sao? Sư phụ đã ra mệnh lệnh, đạo làm đệ tử là phải vì thầy xuất lực có chi quá đáng? huống chi trồng hoa là công việc thanh nhã của bọn văn nhân so với việc khai thương múa đao học võ thì trồng hoa còn cao thượng hơn nhiều. Thoát khỏi tay Cưu Ma Trí định đem mình đốt sống trước mộ Mộ Dung tiên sinh để được ra đây làm cái việc trồng hoa khoái lạc này là vinh hạnh lắm rồi. Chỉ đáng tiếc có một điều là các loại trà hoa kém cỏi này mà phải dùng đến vương tử nước Ðại Lý ra tay trồng tỉa kể cũng hơi phí. Lý luận hồi lâu lòng chàng khoan khoái, miệng bật lên khúc hát vang lừng, vác xuổng cất bước.
Chàng tự nhủ thầm: "Vương phu nhân giao cho ta cái trọng trách phải trồng cho đặng sống bốn bồn bạch trà này phải
lắm! Trà này cũng vào hạng có tên tuổi rồi đây, phải được tay văn nhã như mình trồng mới thành thân".
Ðoàn Dự vừa đi vừa ngắm phong cảnh đột nhiên chàng cười ha hả nghĩ bụng: "Vương phu nhân kể ra cũng kỳ, chẳng hiểu mảy may gì về sơn trà mà lại ưa trà hoa, chỗ nào cũng trồng trà, rồi lại đặt tên cho trang trại của mình là Mạn đà sơn trang, nghe ra có vẻ hay ho lắm. Phu nhân có biết đâu rằng trà ưa khí âm chứ không hợp với khí dương. Trồng trà vào nơi giải nắng thì chẳng chết cũng chột, khó lòng tươi tốt được, vun bón thế nào cũng vô ích. Biết bao nhiêu thứ
trà quý để phu nhân làm hỏng hết. Ðáng tiếc, đáng tiếc!". Chàng tránh những lối nắng chang chang tìm vào những nơi rậm rạp âm u, đi quanh hết hòn núi nhỏ bỗng nghe tiếng suối khe róc rách, bên tả toàn là trúc mọc xanh rì, bốn bề tịch mịch, mặt trời không chiếu vào đến nơi, đúng là khu âm trái núi. Vương phu nhân thấy nơi này đất cớm cho là không thể trồng hoa được nên tuyệt không có một gốc trà nào.
Ðoàn Dự cả mừng lẩm bẩm: "chỗ này trồng trà tuyệt diệu". Ðoạn chàng rảo bước quay về chỗ cũ bưng hai chuyến, bốn chậu trà đến đó. Chàng khoét lỗ bên cạnh khóm trúc, ghè cho vỡ chậu sành rồi đặt cả bầu xuống. Tuy chàng chưa làm qua công việc trồng tỉa nhưng đã được xem nhiều, cứ theo cách thức mà làm cho được chu đáo. Hồi lâu chàng trồng xong cả bốn khóm bạch trà ngay cạnh rặng trúc: đầu bên trái là khóm "Trảo phá mỹ nhân kiểm", đầu bên hữu hai khóm "hồng trang tố lý" và "mãn nguyệt", còn khóm "ỷ lan kiều" thì trồng chênh chếch mé sau khối đá lớn bên bờ suối cho hợp với câu:
E thẹn ôm đàn che nửa mặt
Ai kêu ai gọi cũng mần thinh
Ðoàn Dự rất đắc ý đã trồng khóm "ỷ lan kiều" vào nơi nửa kín nửa hở cho hợp cảnh và tăng thêm vẻ đẹp.
Người Trung Quốc từng đem hoa ví với mỹ nhân, việc trồng hoa cũng như việc trang điểm cho mỹ nhân.
Ðoàn Dự xuất thân tại chốn hoàng cung, đọc thi thư từ thuở nhỏ, cách thức trồng cây cỏ cũng hơn người một bậc. Trồng xong bốn khóm hoa chàng xuống suối rửa sạch chân tay ngồi sau phiến đá lớn ngắm nghía khóm "ỷ lan kiều" lấy làm khoái chí.
Bỗng nghe có tiếng chân bước sột soạt, hai thiếu nữ ngang qua, một cô nói:
-Chỗ này tịch mịch, không có ai qua lại...
Ðoàn Dự thoáng nghe đã giật nảy mình vì chàng nhận ra vị nữ lang mặc áo trắng lúc trước.
Ðoàn Dự nín hơi, không dám ho he một tiếng, nghĩ bụng: "nàng đã bảo không nhìn mặt chàng trai nào không có liên quan gì tới nàng. Ta chỉ cần nghe nàng nói mấy câu phỏng có khác gì được nghe giọng ca nhạc của tiên nương, cũng
đã phúc lắm rồi. Nhất quyết ta phải cố giữ cho nàng không trông thấy mình mới được. Chàng chỉ ngấp nghe nhìn chênh chếch chứ không dám nhìn thẳng mặt.
Chàng vừa nghiêng đầu nghẹo cổ nhìn trộm vừa sợ đụng chạm phát ra tiếng làm kinh động nữ lang.
Nữ lang tiếp tục nói chuyện với thị tỳ:
-Tiểu Thi ! Mi được tin gì về chàng?
Ðoàn Dự nghe hỏi bất giác chua xót trong lòng. Chàng biết rằng tiếng "chàng" mà nữ lang gọi đó là chỉ công tử Mộ Dung. Chàng đã nghe Vương phu nhân gọi gã bằng tên là Mộ Dung Phục mà thôi. Chàng lại thấy nữ lang hỏi vặn thị tỳ về tin tức công tử Mộ Dung có vẻ thiết tha mong nhớ.
Chàng nghĩ thầm: "Giả tỷ cô nương này đối với mình tha thiết như vậy thì dù mình có phải chết ngay tức khắc cũng rất
vui lòng. Nực cười Ðoàn Dự là một gã si tình lạ lùng. Nào chàng đã được nhìn rõ mặt nữ lang áo trắng đâu, chẳng biết nàng đẹp hay xấu, chẳng hiểu tên họ nàng là gì, chẳng rõ nàng hiền lành hay hung dữ tính tình nàng tốt hay xấu. Từ lúc Ðoàn Dự mới nghe tiếng nữ lang áo trắng nói vài câu ngoài bờ hồ ban nãy chàng đã nặng tình rồi. Giả tỷ chàng có vì nàng mà phải hy sinh tính mạng cũng không ăn năn hối hận chút nào. Tại sao chàng đã nẩy ra tâm ý như vậy chính chàng cũng không hiểu nữa. Chàng thấy nàng bất cứ lúc nào hay chỗ nào cũng chỉ bàn tới việc công tử Mộ Dung thì chàng hoặc ngưỡng mộ nàng hoặc tự thương cho mình.
Nghe thiếu nữ hỏi, Tiểu Thi ấp úng hồi lâu, dường như sợ không dám nói thẳng.
Nữ lang giục:
-Mi nói mau đi! không bao giờ ta quên lòng tốt của mi.
Tiểu Thư vẫn ngần ngừ:
-Cháu sợ... cháu chỉ sợ... phu nhân trách phạt.
Nữ lang tức mình hăm dọa:
-Con này điên hả? Mi cứ nói cho ta hay. Dĩ nhiên là ta không kể với phu nhân đâu. Nếu mi không nói ta hỏi Tiểu Trà, Tiểu Thuý sẽ biết, sau phu nhân có hỏi đến ta sẽ đổ cho mi mách ta đó!
Tiểu Thi hốt hoảng hỏi lại:
-Tiểu thư! Sao tiểu thư... lại chực đổ oan cho cháu?
Nữ lang cười đáp:
-Có gì là lạ? Kẻ nào làm tâm phúc cho ta dĩ nhiên ta phải nâng đỡ và hộ vệ nó.
Ðứa nào không chịu nghe lời ta thì ta đổ tội cho chứ sao?
Tiểu Thi ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đáp:
-Thôi cháu đành nói rõ cho cô nương nghe. Cô nương phải giữ tuyệt đối bí mật,chớ để cho câu chuyện tiết lộ ra ngoài.
Nữ lang nói:
-Ta xem mi không muốn nói cứ ấp úng hoài. Ta chỉ tin ngươi được phần nào thôi. Giả tỷ mi đừng giấu ta câu nào thì ta quyết với mi rằng vĩnh viễn mi không bị phu nhân quở trách.
Tiểu Thi thở dài nói:
-Biểu thiếu gia đến chùa Thiếu Lâm đó.
Nữ lang giật giọng hỏi:
-Mi bảo chàng đến chùa Thiếu Lâm ư? Sao A Châu A Bích lại nói chàng đến Cái Bang ở Lạc Dương kia mà?
Ðoàn Dự tự hỏi: "Biểu thiếu gia nghĩa là gì? à thôi phải rồi! Công tử Mộ Dung là biểu huynh cô nương đây, hai người là anh em họ với nhau".
Tiểu Thi nói:
-Hôm vừa rồi, phu nhân ra đi giữa đường gặp Phong tứ gia bên yến tử ổ nói cho biết là người đi chùa Thiếu Lâm bên Tung Sơn để tiếp ứng cho biểu thiếu gia.
Nữ lang hỏi:
-Chàng đi chùa Thiếu Lâm có việc gì?
Tiểu Thi đáp:
-Phong tứ gia kể rằng biểu thiếu gia đưa tin về có rất nhiều phái võ đến chùa Thiếu Lâm, mở cuộc anh hùng đại hội gì đó để đối phó với nhà Mộ Dung mà thiếu gia chưa biết rõ có những ai. Cháu lại nghe nói bên yến tử ổ còn có nhiều người đi tiếp ứng.
Nữ lang lại hỏi:
-Phu nhân đã được tin như vậy sao lại quay về? Không đi giúp biểu thiếu gia?
Tiểu Thi đáp:
-Ðiều đó cháu cũng không hiểu. Dường như phu nhân không ưa biểu thiếu gia.
Nữ lang hậm hực nói:
-Hừ! ưa hay không ưa là một chuyện. Dù sao thiếu gia cũng là người trong nhà.
Ðể thiếu gia mất mặt với người ngoài thì mình vẻ vang lắm hay sao?
Tiểu Thi nói:
-Ðúng thế!
Nữ lang tức mình hỏi:
-Ðúng cái gì?
Tiểu Thi run sợ đáp:
-Ðúng là... chẳng vẻ vang gì.
Nữ lang chạy đi chạy lại bên rặng trúc xanh để lo mưu tính kế. Chợt trông ba khóm bạch trà Ðoàn Dự mới trồng, mảnh chậu đập ra còn bỏ đó, nàng ngạc nhiên hỏi:
-Ai trồng trà ở đây thế này?
Ðoàn Dự vội vàng từ sau phiến đá lớn chạy vụt ra vái dài sát đất nói:
-Tiểu sinh vâng mệnh phu nhân, đang trồng trà tại đây, không ngờ lại gặp tiểu thư.
Tuy vái dài tỏ ra rất cung kính nhưng mắt chàng cứ chằm chặp nhìn thẳng vào mặt nữ lang. Vì chàng sợ lại phải nghe nàng nói một câu dứt khoát như lần trước:
"ta không nhìn bất cứ gã trai nào không có liên can gì đến ta" rồi trở gót đi thẳng thì lại lỡ mất cơ hội. Ðoàn Dự vừa nhìn thấy mặt nữ lang đã tai ù mắt hoa, hai đầu gối nhũn ra không tự chủ được nữa, quỳ mọp xuống đất, nếu không miễn cưỡng chống lại thì đến cái đầu cũng đập xuống đất mà lạy. Miệng chàng lắp bắp nói luôn:
-Thần tiên nương tử ơi! tôi nhớ nương tử muốn chết đi được.
Nguyên tướng mạo nữ lang áo trắng này giống hệt pho tượng ngọc trong thạch động bên nước Ðại Lý.
Vương phu nhân cũng đã giống pho tượng này nhưng cao tuổi hơn còn nữ lang áo trắng có khác là chỉ ở bộ áo mặc ngoài mà thôi. Từ mặt mũi, tai mắt, mồm miệng cho chí tầm vóc, chân tay cùng màu da đố ai tìm được chỗ nào khác. Thực là pho tượng ngọc tái sinh. Ðoàn Dự như người đang lạc vào cõi mộng. Chàng đã trải không biết mấy ngàn mấy trăm lần tưởng nhớ đến pho ngọc tượng. Lúc này chính mắt chàng nhìn thấy người thật mà chàng chẳng hiểu ở nơi nao ở trần gian hay thượng giới.
Nữ lang thấy cử động cùng cách xưng hô của Ðoàn Dự cho là chàng mắc bệnh điên cuồng vừa khẽ hỏi vừa lùi lại hai bước:
-Ngươi... ngươi...?
Ðoàn Dự đứng dậy nói:
-Hôm đó ở trong thạch động tôi được bái kiến tiên dung thần tiên nương tử, đã mừng cho mình phúc duyên rất lớn, không ngờ ngày nay lại thấy dung nhan nương tử thì ra trên đời này quả có tiên tử không sai.
Nữ lang quay lại hỏi Tiểu Thi:
-Gã nói chi đó? Gã là ai vậy?
Tiểu Thi nói:
-Gã là một anh đồ gàn đến với A Châu, A Bích. Gã nói nhăng nói cuội thế nào mà phu nhân tin lời mới nực cười.
Nữ lang quay ra hỏi Ðoàn Dự:
-Tên đồ gàn kia! Ta vừa nói chuyện với thị nữ đây ngươi có nghe thấy không?
Ðoàn Dự cười đáp:
-Tôi họ Ðoàn tên Dự, người nước Ðại Lý, không phải là đồ gàn đâu. Vừa rồi thần tiên nương tử nói chuyện với chị Tiểu Thi đây vô tình tôi đã nghe rõ cả. Xin thần tiên nương tử cùng chị Tiểu Thi cứ yên lòng, tiểu sinh nhất quyết không tiết lộ một câu nào cho ai biết cả và xin bảo đảm cho chị Tiểu Thi không bị phu nhân quở trách vì tôi.
Nữ lang sa sầm nét mặt hỏi:
-Ngươi xưng hô lăng nhăng như vậy còn cãi không phải đồ gàn. Ngươi thấy ta từ lúc nào?
Ðoàn Dự hỏi lại:
-Tôi không xưng hô bằng thần tiên nương tử thì xưng hô thế nào cho phải nhẽ?
Nữ lang đáp:
-Ta họ Vương, ngươi cứ gọi ta bằng Vương cô nương là được rồi.
Ðoàn Dự lắc đầu quầy quậy nói:
-Không được! Không được! Khắp thiên hạ cô nương họ Vương kể có hàng ngàn hàng vạn còn cô nương đây là nhân vật thần tiên, phi phàm mà cũng chỉ gọi bằng Vương cô nương như người thường thế nào được? Bây giờ biết xưng hô cách nào đây? ấy thế mà khó đấy! Gọi vắn tắt là Vương tiên tử chăng? cũng không được!
Nhà Ðại Tống rồi các nước Ðại Lý, Liêu Quốc, Thổ Phồn nước nào chẳng có công chúa nhưng bì với cô nương thế nào được?
Nữ lang nghe Ðoàn Dự nói tràng giang đại hải, toàn những câu gàn gàn dở dở.
Dù thấy gã tán dương sắc đẹp mình một cách quá lố chăng nữa nhưng trong lòng nàng vẫn cảm thấy vui vui, nàng mỉm cười nói:
-Dù sao thì ta cũng cho ngươi là tốt phúc vì chưa bị mẫu thân ta chặt chân.
Ðoàn Dự lại nói:
-Thần tiên nương tử cùng lệnh đường phu nhân tướng mạo giống nhau nhưng tính tình thực khác xa nhau. Phu nhân động một tý là giết người, có điều không xứng đáng với thể chất thần tiên...
Nữ lang nhíu đôi lông mày ngắt lời:
-Thôi ngươi tiếp tục trồng hoa đi! đừng đứng đây bẻm mép nữa. Bọn ta có việc phải bàn.
Nàng nói câu đó với vẻ mặt coi Ðoàn Dự như một tên thợ trồng hoa không hơn không kém.
Ðoàn Dự không lấy làm tủi nhục về thái độ kiêu căng của nàng.
Chàng chỉ mong được cùng nàng nói câu nào hay câu ấy, nhìn phút nào hay phút ấy. Chàng tính kế: "muốn cho nàng bắt chuyện thì không gì bằng việc đề cập đến công tử Mộ Dung. Bụng dạ nàng để cả vào gã, ngoài ra nàng không thiết một việc gì hết". Nghĩ vậy chàng liền nói:
-Các anh hùng thiên hạ hội họp cùng phái Tung Sơn và phái Thiếu Lâm thương nghị việc đả phá nhà Mộ Dung. Nhân vật các phái dĩ nhiên không phải là ít, công tử Mộ Dung cô thân, dấn mình vào nơi hiểm địa, thật là đáng lo ngại.
Quả nhiên nữ lang giật mình. Ðoàn Dự không dám nhìn thẳng vào mặt nàng,chàng nghĩ thầm: "nàng vì cái thằng khốn kiếp Mộ Dung Phục mà phải băn khoăn trong dạ. Ta xem dường như nàng muốn sa luỵ là khác. Tà áo trắng nàng vẫn lay động, rồi bằng một giọng êm dịu như tiếng tiêu nàng hỏi:
-Ngươi có biết tình hình chùa Thiếu Lâm ra sao không? nói cho ta nghe.
Ðoàn Dự thấy nàng nhỏ nhẹ cầu khẩn mình cầm lòng không đậu muốn đem hết tất cả những điều mình hay biết nói cho nàng nghe. Song chàng nghĩ lại: "nếu có điều gì mình đem dốc ra hết, nàng nghe xong rồi lại giục mình đi trồng trà thì mình tìm đâu ra đề tài để hòng được nói nữa với nàng, thế mới khó chứ! Chi bằng mình phải tìm cách kéo dài câu chuyện, mỗi ngày cho ra một mẩu để ngày ngày nàng phải đến tìm mình hỏi chuyện. Hễ tìm đến mình không được tất phải nóng ruột khó chịu. Nghĩ vậy chàng đằng hắng rồi bắt đầu vào chuyện:
-Về võ công tôi chẳng biết tý gì cả. Cả những thế võ tầm thường như "kim kê độc lập", "hắc hổ thâu tâm" gì gì đi nữa tôi cũng không hay nhưng trong nhà tôi có anh bạn họ Chu, tên gọi Chu Ðan Thần, ngoại hiệu là "nghiên sinh". Trông bề
ngoài anh ta cũng chỉ là gã văn nhược thư sinh như tôi này thôi, hay gọi là tên đồ gàn cũng được. Hà hà thế mà võ công anh ta đáo để lắm. Một hôm anh ta cầm cái quạt quay ngược đầu lại đánh "chát" một tiếng, cán quạt trúng vào bả vai một gã đại hán, thế mà gã này người co rúm lại, chẳng khác gì một đống đất lù lù, không sao nhúc nhích được nữa.
Nữ lang nói:
-ừ đó là đòn thứ 38 để đánh vào huyệt đạo trong phép "thanh lương phiến, trở đầu quạt đánh xéo vào huyệt "kiên trinh", vậy thì Chu tiên sinh là đệ tử dưới trướng Tam Nhân Quán, một chi nhánh phái Côn Luân đó. Võ công phái này dùng bút cũng lợi hại như dùng quạt thôi. Ngươi nói vào cốt chuyện đi đừng nói về võ công với ta nữa.
Giả tỷ mà Chu Ðan Thần được nghe chuyện nàng nói tất phải phục sát đất và không những nàng gọi rõ tên cúng cơm thế võ mà thôi, nàng còn nói rõ ràng cả lai lịch tông chỉ người dạy môn đó nữa. Không những Chu Ðan Thần đến ngay những nhà võ học uyên thâm tỷ như bá phụ Ðoàn Dự là Ðoàn Chính Minh, phụ thân chàng là Ðoàn Chính Thuần, cũng phải giật mình tự hỏi: "cô nương nhỏ tuổi này mà sao kiến thức về võ học đã sâu rộng đến thế?". Nhưng đối với anh chàng Ðoàn Dự chẳng biết tý võ công nào nên mấy lời phác hoạ nàng nói vừa rồi chỉ thoáng qua tai chàng mà thôi. Giả tỷ câu chuyện này đưa ra ngoài tất làm chấn động giang hồ, thành một đề tài sốt dẻo và trọng đại bậc nhất đối với các phái võ.
Về Đầu Trang Go down
Oz Vessalius
Tướng Quân
Tướng Quân
Oz Vessalius

Tổng số bài gửi : 95
Điểm Thưởng : 5149
Độ Tin Tưởng : 104
Join date : 05/01/2011

Thiên Long Bát Bộ - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ   Thiên Long Bát Bộ - Page 2 I_icon_minitimeThu Jan 06, 2011 5:30 pm

Hồi 31

Hiềm Khích Giữa Hai Nhà Mộ Dung Và Vương Thị




Ðoàn Dự tuy nghe nàng bình luận võ công nhưng nàng muốn nói thế
nào thì nói,và tai nọ rồi lại ra tai kia, chàng chẳng cần biết thế võ
có đúng hay không, chỉ dán cặp mắt vào đôi mày thưa thớt cùng cặp môi
son của nàng chứ không để ý gì đến võ nghệ.
Nữ lang hỏi:
-Vị Chu tiên sinh đó là người thế nào?
Ðoàn Dự chỉ vào phiến đá lớn như hình cái sập bên cạnh bụi trúc nói:
-Câu chuyện dài lắm, xin tiểu thư rời gót ngọc ngồi xuống kia để rôi từ từ nói rõ cho tiểu thư nghe.
Nữ lang nói:
-Ngươi chỉ dềnh dàng mãi thôi. Nói mau đi không được ư? Ta đâu có thì giờ để nghe ngươi nói hươu nói vượn?
Ðoàn Dự nói:
-Hôm
nay tiểu thư chưa được rảnh vậy sáng mai lại đây tìm tôi cũng được. Trừ
phi phu nhân có cắt lưỡi tôi đi còn thì tiểu thư hỏi đâu tôi xin nói
đấy mà nói hết lời không sót mảy may.
Nữ lang khẽ dậm chân một cái nhìn Tiểu Thi nói:
-Phu nhân có nói gì nữa không?
Tiểu Thi nói:
-Phu
nhân đã có ý đến Bách Cầm kiếm công trị phu nhân đánh cờ nhưng vừa nghe
tin công tử Mộ Dung đến chùa Thiếu Lâm liền ra lệnh quay thuyền về
ngay.
Nữ lang hỏi:
-Sao thế?
Rồi nàng không chờ Tiểu Thi trả
lời lẩm bẩm một mình: "Chà! Mẫu thân sợ công trị phu nhân lại yêu cầu
người ra tay giúp sức nên vờ như không biết là xong".
Tiểu Thi nói:
-Tiểu thư! Cháu sợ phu nhân kiếm, xin cho cháu đi!
Nữ lang nói:
-Ừ ! Việc này ta không nói với ai đâu nhé. Tuỳ mi có muốn đem kể với ai thì cứ việc mà kể.
Tiểu Thi vội nói:
-Xin tiểu thư chớ nói với ai thì cháu mới có thể ở đây hầu hạ tiểu thư vài năm nữa được.
Nữ
lang mỉm cười. Tiểu Thi cáo biệt rồi trở gót đi ngay. Ðoàn Dự liếc mắt
thấy nàng tỏ vẻ kinh sợ nghĩ thầm: "vì mẫu thân nàng giết người như ngoé
nên ai ai cũng phải kinh sợ".
Nữ lang từ từ bước lại chỗ phiến đa,
lẹ làng ngồi xuống. Nàng không mời Ðoàn Dự mà chàng cũng không dám mạo
muội đến gần nàng. Chàng đứng nhìn thấy có một khóm bạch trà gần chỗ
nàng ngồi, còn hai khóm nữa xa hơn một chút. Người đẹp ngồi gần danh
hoa, phong cảnh lại càng tuyệt mỹ. Rồi chàng đọc câu thơ của Lý Thái
Bạch đem hoa mẫu đơn để tả cái đẹp của Dương Quý Phi.
Chàng còn than cho Lý Thái bạch không có diễm phúc được nhìn thấy vẻ kiều diễm của nữ lang
đây còn hơn Dương Quý Phi nhiều.
Nữ lang nói:
-Ngươi không ngớt khen ta đẹp chẳng biết có đúng không?
Ðoàn Dự tỏ vẻ sửng sốt la lên:
-Trời ơi! không biết vẻ đẹp của Tử Ðô đời chiến quốc đã là người không có mắt.
Ðó
mới là một chàng trai mà người ta còn bình phẩm như vậy, huống chi cô
nương là một kỳ công của vũ trụ? Tiểu thư ra đời thì bao nhiêu bài thơ
tán dương sắc đẹp từ xưa đến nay không còn ai muốn để vào tai nữa.
Nữ lang từ từ lắc đầu, khoé mắt hơi lộ vẻ bâng khuâng nói:
-Trước
nay ta chưa thấy ai nói đến ta đẹp hay không. ở Mạn đà sơn trang này
trừ mẫu thân ta còn toàn kẻ hầu người hạ. Bọn chúng chỉ biết ta là tiểu
thư của chúng,thì còn ai dám nói đến ta đẹp hay xấu?
Ðoàn Dự hỏi:
-Thế còn người ngoài cũng không ai nói gì sao?
Nữ lang hỏi:
-Ngươi bảo người ngoài nào?
Ðoàn Dự nói:
-Khi tiểu thư ra ngoài, người ta nhìn thấy tiểu thư như tiên nương giáng trần chẳng lẽ họ cũng im mồm sao?
Nữ lang:
-Ta
chưa từng ra khỏi nhà, mà ra ngoài làm gì? Ta sang Lang Hoàn Các xem
sách, mẫu thân còn chẳng muốn cho đi. Có đi thì cửa sổ dưới thuyền che
kín hết,gió không lọt vào được.
Ðoàn Dự gật đầu hỏi:
-À ra quả có lang hoàn các thật. Nơi đó có nhiều sách lắm phải không?
Nữ lang đáp:
-Cũng không nhiều. Chừng bốn năm gian nhà sách thôi.
Ðoàn Dự hỏi một cách đột ngột:
-Thế còn chàng... chàng cũng không bàn đến vẻ đẹp của tiểu thư ư?
Nữ
lang thấy Ðoàn Dự đề cập đến Mộ Dung công tử, từ từ cúi đầu xuống, rồi
thấy một tiếng nấc rất êm nhẹ, như tiếng đàn sắt thoảng lọt vào tai
chàng. Tiếp theo tiếng nấc là mấy giọt lệ rơi trên ngọn cỏ, trông bóng
như hạt ngọc hay như hạt sương buổi sớm mai.
Ðoàn Dự thấy vậy không dám hỏi nữa và cũng không biết nói thế nào để an ủi nàng.
Hồi lâu nàng mới nghẹn ngào nói:
-Chàng... chàng mắc bận nhiều quá, quanh năm không được lúc nào nhàn rỗi.
Hoạ hoằn mới có khi chàng gặp ta, phi nói chuyện võ công là bàn đến việc lớn nhà nước. Ta... ta chán võ công lắm rồi.
Ðoàn Dự vỗ đùi reo lên:
-Tiểu
thư dạy đúng lắm! Tôi cũng ngán ngẩm vô cùng. Chả thế mà bá phụ và gia
gia tôi ép học môn gì tôi cũng không chịu rồi bỏ nhà đi trốn.
Nữ lang thở dài nói:
-Ta
mong gặp chàng nên dù trong lòng có chán ngán võ công mà vẫn phải gia
tâm nghiên cứu, phòng khi có chỗ chàng chưa thấu đáo thì ta phải giảng
cho chàng nghe. Bất luận triều đại nào, vua quan nào, quanh đi quẩn lại
toàn chuyện đâm chém nhau. Bản tâm ta không muốn biết đến những vụ đó
thì lại là những món mà chàng ưa thích nhất. Thế ra ta có sách cũng chỉ
là học cho chàng chứ không phải đọc cho ta.
Ðoàn Dự rất lấy làm kỳ hỏi lại:
-Sao tiểu thư lại phải xem sách hộ chàng? tự chàng không đọc lấy cho chàng được hay sao?
Nữ lang nguýt Ðoàn Dự một cái rồi hỏi:
-Ngươi tưởng chàng dốt chữ hay đui mù phải không?
Ðoàn Dự vội cải chính:
-Không! không phải thế! Tôi muốn hỏi chàng có phải là người hay nhất thiên hạ không?
Tuy chàng hỏi vậy để gỡ lại mà trong lòng chua xót vô hạn. Nữ lang mỉm cười đáp:
-Chàng
là biểu huynh ta. Trong trang này trừ cửu phụ, cửu mẫu và biểu huynh ta
thì không có ai tới nữa. Về sau cửu phụ cùng mẫu thân xảy vụ xích mích
từ đó cấm cửa cả biểu huynh ta, không cho đến nữa. Ta cũng chẳng hiểu
chàng có phải là người hay nhất trần đời không, mà cũng chẳng biết ai
hay dở, và thế nào là hay,thế nào là dở.
Nàng nói mấy câu sau quầng mắt đỏ hoe, rớm lệ. Ðoàn Dự nói:
-Trời ơi! thế ra mẫu thân tiểu thư là em gái của cửu phụ tiểu thư, còn chàng...
chàng là... con trai của cửu phụ tiểu thư phải không?
Nữ lang bất giác phì cười đáp:
-Ta xem chừng ngươi có tính dớ dẩn, ngây ngô. Ta là con gái mẫu thân ta thì chàng là biểu huynh ta chứ gì?
Ðoàn Dự thấy mình làm cho nàng phải phì cười thì lấy làm thú vị nói:
-Vâng! tôi hiểu rồi chắc là biểu huynh tiểu thư bận quá, không có thì giờ đọc sách nên tiểu thư phải đọc giùm.
Nữ lang cười nói:
-Kể
ra nói thế cũng phải, nhưng ở trong còn có nguyên nhân khác. Thôi bây
giờ ta hỏi ngươi: tại chùa Thiếu Lâm có những môn phái nào đến họp? Và
họ mở cuộc anh hùng đại hội làm gì?
Ðoàn Dự nhìn thấy trên đầu mi
nàng còn đọng một hạt nước mắt, chàng liên tưởng đến cảnh đẹp của hoa lê
còn đọng hạt mưa hay đoá mai côi còn động hạt móc. Nữ lang chờ hồi lâu
thấy Ðoàn Dự tần ngần không đáp, liền chìa tay ra để lên mu bàn tay
chàng đẩy nhẹ một cái hỏi:
-Ngươi nghĩ gì vậy?
Ðoàn Dự giật nẩy mình la lên:
-ối chao!
Nữ lang cũng giật mình hỏi:
-Sao thế?
Ðoàn Dự đỏ bừng mặt đáp:
-Tiểu thư đưa ngón tay chỉ lên tay tôi, tôi lại tưởng tiểu thư điểm huyệt.
Tiểu thư không biết là chàng nói giỡn, giương cặp mắt tròn lên nhìn chàng nói:
-Trên
mu bàn tay làm gì có huyệt đạo? Ba huyệt "dịch môn", "trung chử","dương
trì" đều ở cườm tay, hai huyệt "tiền khoát", "dưỡng lão" ở gần cổ tay
lại càng xa hơn nữa.
Nàng vừa nói vừa giơ tay mình ra chỉ cho chàng
xem. Ðoàn Dự thấy ngón trỏ bên tay trái nàng tròn trĩnh như ngó hành
điểm trên mu bàn tay trắng nõn bất giác cảm thấy khát khô cả họng và đầu
óc choáng váng chàng hỏi:
-Cô nương tên họ là gì?
Thiếu nữ đáp:
-Ngươi
thật là cổ quái! thôi ta cho ngươi biết tên cũng chẳng hại gì. Ðoạn
nàng lấy ngón tay vạch lên mu bàn tay mình ba chữ: "Vương Ngọc Yến".
Ðoàn Dự run lên nghĩ thầm: "một vị tiểu thư diễm lệ thế này cần phải có
cái tên cho cực kỳ văn nhã lịch sự mới phải, sao lại đặt là Vương Ngọc
Yến? Nghe chẳng thoát tục chút nào. Chẳng những không thanh nhã bằng A
Châu, A Bích mà còn kém cả những tên mấy ả nha hoàn: Tiểu Thi, Tiểu Trà,
Tiểu Thuý nữa".
Song rồi chàng nghĩ lại vỗ trán lẩm bẩm: "Tuyệt
diệu! Tuyệt diệu! Cái tên Ngọc Yến tượng trưng cho sự trong trắng không
ngấn vết mà lại bay lượn nhẹ nhàng trên không như chim én".
Vương Ngọc Yến mỉm cười nói:
-Tên
họ con người cốt đặt để gọi cho nghe được thì thôi. Sử sách đã cho ta
biết bao nhiêu hạng đại gian đại ác mang những tên cực hay cực đẹp. Tỷ
như Tào Tháo mà chẳng có tiết tháo chút nào, Chu Toàn Trung lại là một
gã đại bất trung. Như ngươi là Ðoàn Dự thì cái tên Dự có đẹp không? danh
dự ngươi có lững lẫy không?
Ta chỉ e là cái tên trống rỗng.
Ðoàn Dự nói xen vào:
-.... điếu dự.
Hai
người đều cả cười. Bộ mặt Vương Ngọc Yến tuy cực kỳ diễm lệ nhưng vẫn
đượm vẻ ưu tư. Lúc này nàng bật lên tiếng cười khanh khách, trong lòng
vui vẻ,thoáng quên mối lo âu hằng ấp ủ trong lòng, càng tăng vẻ kiều
diễm xinh tươi.
Ðoàn Dự nghĩ thầm: "nếu ta dẫn dụ cho nàng mở miệng
tươi cười thì cuộc đời ta cũng thoả mãn lắm rồi, còn mong gì hơn nữa?".
Không ngờ Vương Ngọc Yến chỉ cao hứng được giây lát rồi đôi mắt nàng lại
mơ màng lộ ra một mối buồn man mác. Nàng cất giọng ảm đạm nhẹ nhàng:
-Chàng...
chàng là người nghiêm nghị quá chừng, chẳng bao giờ chàng nói với ta
một câu chuyện bâng quơ. Ôi Yên quốc! Yên quốc! Phải chăng đó là một vấn
đề trọng yếu?
Mấy chữ Yên quốc chạm vào khối óc Ðoàn Dự, chàng vụt
nảy ra một ý nghĩ đem chắp những chữ rời rạc với nhau: nào Mộ Dung thị,
nào Yến tử ổ, nào Tham Hợp trang, nào Yên quốc buột miệng hỏi:
-Phải chăng công tử Mộ Dung vốn dòng họ Tiên Ty ở đất Hồ chứ không phải người Trung Quốc?
Vương Ngọc Yến đáp:
-Ðúng
đó! Chàng là Vương tôn dòng họ Mộ Dung ở Yên quốc. Trải qua đã mấy trăm
năm sao còn giữ quan niệm cũ kỹ của tổ tiên? Chàng muốn giữ bản chất
người Hồ, không làm người Trung Quốc mà cũng không học chữ Trung Quốc.
Chàng
không đọc sách Trung Quốc nhưng ta xem sách Trung Quốc chẳng có gì là
dở. Có lần ta bảo chàng viết chữ lối Tiên Ty thì chàng lại cáu kỉnh.
Vương
Ngọc Yến nói chuyện Mộ Dung công tử xong từ từ ngẩng đầu lên buông tầm
mắt nhìn mây trắng lơ lửng xa xa, trong lòng nàng dào dạt nỗi đăm chiêu.
Nàng nói bằng một giọng nhỏ nhẹ:
-Chàng...
chàng lớn hơn ta mười tuổi và ta chỉ vào hạng em gái út chàng. Ngoài
việc đọc sách học võ ra ta chẳng biết việc gì nữa. Chàng có hiểu đâu
rằng ta đọc sách là đọc cho chàng, luyện võ cũng vì chàng. Ta tưởng thà
nuôi mấy con gà nhỏ,cho nó nhảy nhót, hoặc gảy đàn viết chữ mà chơi còn
thú hơn.
Ðoàn Dự cất tiếng run run hỏi:
-Tiểu thư tận tâm như vậy... mà chàng không biết ư?
Vương Ngọc Yến đáp:
-Ta
tận tâm với chàng, chàng có biết chứ. Chàng cũng rất tốt với ta.
Nhưng...nhưng đôi ta chẳng khác gì anh em ruột, ngoài câu chuyện đứng
đắn chàng không nói với ta một chuyện gì khác. Lòng chàng nghĩ ngợi điều
gì chàng không cho ta hay và cũng chẳng bao giờ chàng hỏi đến tâm sự
của ta.
Nói tới đây, má nàng ửng đỏ ra chiều e lệ, lại càng nổi lên một vẻ đẹp quyến rũ mê hồn.
Ðoàn Dự toan cất lời hỏi đùa nàng: "tiểu thư có tâm sự gì trong lòng?".
Nhưng thấy nàng bẽn lẽn nên không dám đường đột liền xoay chiều câu hỏi:
-Tiểu thư cùng chàng bàn văn, luận võ có lúc nào đề cập đến những khúc "tử dạ ca" hoặc "hội chân ký" không?
Chàng
hỏi vậy để gợi cho nàng những thi ca miêu tả ái tình để nàng đem ra đàm
luận với công tử Mộ Dung. Nhưng câu nói vừa ra khỏi cửa miệng thì lòng
chàng lại hối hận. Vì tuy nàng có tình với Mộ Dung công tử song chỉ ấp ủ
trong lòng, không biết đường diễn tả cùng người yêu. Nay mình mớm lời
cho nàng, phỏng có khác gì dạy khỉ trèo cây?
Vương Ngọc Yến cả thẹn vội gạt đi:
-Khi nào lại thế được? Mình phải giữ nền nếp con nhà khuê các nói ra để biểu huynh khinh thường ư?
Ðoàn Dự nói:
-Vâng chính thế là phải!
Tâm
sự Vương Ngọc Yến chôn tận đáy lòng đã lâu nay không hé môi, hé lợi
cùng ai chỉ có mình biết với mình nay gặp Ðoàn Dự là người có tính cách
hời hợt phóng lãng, không hiểu sao nàng lại tin chàng đến thế, đem hết
chuyện tâm tình
thổ lộ cùng chàng. Thực ra chuyện nàng thầm yêu biểu
huynh Mộ Dung thì A Châu, A Bích cùng lũ nha hoàn Tiểu Trà Tiểu Thi đều
biết hết, có điều không nói ra mà thôi.
Vương Ngọc Yến sau khi dốc bầu tâm sự, trong lòng cảm thấy hơi nhẹ nhõm nàng nói tiếp:
-Vừa
rồi ta đã nói với ngươi nhiều chuyện vớ vẩn chưa vào chính đề. Tại chùa
Thiếu Lâm hiện có những ai tụ họp? Sao bọn họ lại muốn gây sự với biểu
huynh ta?
Ðoàn Dự đáp:
-Phương trượng chùa Thiếu Lâm là Huyền Từ đại sư có một vị sư đệ là Huyền Bi đại sư, sở trường về phép "kim cương chữ".
Vương Ngọc Yến gật đầu ngắt lời:
-Ðó là môn thứ 48 trong 72 môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm. Chữ pháp này gồm 19 miếng phóng ra cực kỳ hung mãnh.
Ðoàn Dự tiếp:
-Huyền
Bi đại sư không biết vì sao bị người đánh chết mà kẻ địch lại hạ thủ
bằng chính cái môn sở trường của đại sư, là phép "Kim cương chữ". Họ cho
rằng cái lối giết người đó chỉ có nhà Mộ Dung làm được, gọi là lối "gậy
ông đập lưng
ông". Vì thế nên phái Thiếu Lâm quyết chí tìm đến nhà Mộ Dung để báo thù.
Nhận
thấy võ công nhà Mộ Dung cực kỳ lợi hại, họ sợ không địch nổi nên hội
họp các phái võ lại để thương nghị phương pháp đối phó.
Vương Ngọc Yến nói:
-Ngươi nói rất có lý, nhưng trừ phái Thiếu Lâm ra còn những ai?
Ðoàn Dự đáp:
-Còn Kha Bách Tuế phái Tung Sơn cũng bị sát hại về môn "linh xà chiều đẩu" gì đó là môn tuyệt kỹ của họ.
Vương Ngọc Yến nói:
-Hừ,
phái Tung Sơn có 29 thế "bách thắng nhuyễn tiên" mà "linh xa chiền đẩu"
là miếng võ thứ tư biến ra. Tuy lối đánh kỳ dị nhưng không được liệt
vào hạng võ học thượng thừa.
Ðoàn Dự tiếp:
-Kha Bách Tuế chết về
thế võ "Linh xà chiền đẩu". Sư đệ cùng đồ đệ cùng tìm Mộ Dung để báo
thù. Ngoài ra... ngoài ra còn có không biết bao nhiêu người nhưng tôi
không hiểu võ công nên không nhớ được nhiều.
Chàng tự nghĩ: "họ Ðoàn nước Ðại Lý ta cũng có tham dự vào công cuộc đả phá Mộ Dung nhưng chẳng nên nói ra".
Vương Ngọc Yến nói:
-Ta
vốn biết tính khí biểu huynh ta. Chàng mà nghe thấy có nhiều người đối
đầu với mình là chàng tìm đến họ trước. Nhưng chàng sao hiểu hết được
các môn tuyệt kỹ của mọi người. Huống chi phe địch lại đông, nếu họ nhất
tề ra tay, dễ gì mà thắng họ được?
Nói tới đây bỗng có hai ả nha hoàn Tiểu Thi và U Thảo chạy đến. U Thảo mặt sợ tái xanh nói:
-Tiểu thư ơi! nguy... nguy đến nơi rồi. Phu nhân hạ lệnh đem hai chị A Châu, A Bích...
Nói tới đây U Thảo như bị nghẹn họng không sao thốt ra lời nữa. Tiểu Thi phải nói tiếp:
-Ðem hai chị ấy ra chặt cánh tay phải, phạt các chị về tội thiện tiện lén đến Mạn Ðà sơn trang. Biết làm... thế nào bây giờ?
Ðoàn Dự vội nói:
-Vương cô nương... cô nương... mau tìm cách cứu bọn họ mới được.
Vương Ngọc Yến cũng nóng ruột nói:
-Châu,
Bích là hai đứa thị tỳ tâm phúc của biểu huynh ta. Nếu để chúng thành
phế nhân thì ta còn mặt mũi nào với biểu huynh nữa? U Thảo! Hiện giờ
chúng ở đâu?
U Thảo vốn là bạn thân với A Châu, A Bích, nghe tiểu thư có ý giải cứu cho,thấy có một tia hy vọng vội đáp:
-Phu
nhân truyền đưa hai chị ấy xuống Hoa phi phòng. Cháu đã xin Nghiễm Bà
rồi hãy động thủ. Bây giờ tiểu thư nên lên cầu khẩn phu nhân, may ra còn
kịp.
Vương Ngọc Yến nghĩ thầm: "năn nỉ mẫu thân chưa chắc đã ăn thua
nhưng cũng không còn cách nào khác". Nàng gật đầu rồi cùng Tiểu Thi, U
Thảo đi luôn.
Ðoàn Dự nhìn bóng sau lưng nàng đi rất mau lẹ muốn chạy
theo nói thêm vài câu. Nhưng vừa chạy theo không biết nói sao liền tần
ngần đứng lại.
Vương Ngọc Yến chạy mau lên nhà trên thấy mẫu thân
đang đốt lò trầm, khói hương cuồn cuộn bay lên và sắp vào tĩnh toạ nhập
định thì phải mất hàng nửa ngày không dám đến quấy nhiễu vội nói ngay:
-Thưa mẫu thân! Con có điều trình mẫu thân.
Vương phu nhân từ từ giương mắt lên nhìn vẻ mặt cực kỳ nghiêm nghị nói:
-Việc gì có liên quan đến nhà Mộ Dung là ta không nghe đâu đấy!
Vương Ngọc Yến nói:
-Thưa mẫu thân! A Châu, A Bích chuyến này không phải có chủ ý đến đây. Con tưởng mẫu thân nên tha cho chúng một phen.
Vương phu nhân hỏi:
-Sao con biết chúng không có chủ ý đến đây? Con sợ ta chặt tay chúng thì biểu huynh không nhìn nhõi đến con nữa phải không?
Vương Ngọc Yến mắt đẫm lệ nói:
-Biểu
huynh con cũng là cháu mẫu thân. Sao mẫu thân... lại oán hận chàng? dù
mẫu thân có điều xích mích với cữu phụ, mẫu thân cũng chẳng nên giận lây
đến biểu huynh con.
Nàng đánh bạo nói mấy câu mà trống ngực đánh
thình thình, mình lại tự hỏi mình: "sao ta dám cả gan mở miệng lý sự cả
với mẫu thân?".
Vương phu nhân mắt sáng như hai luồng điện lướt qua
mặt cô con mấy lần,không nói năng gì rồi nhắm mắt lại. Vương Ngọc Yến
không dám thở mạnh, không hiểu trong lòng mẫu thân đang nghĩ gì mà ý
định thế nào?".
Hồi lâu phu nhân mới mở mắt ra hỏi:
-Sao con biết ta có chuyện xích mích với cữu phụ? Xích mích ở chỗ nào?
Vương Ngọc Yến nghe giọng nói mẫu thân lạnh như băng giá lại càng sợ hãi,không nói nên lời. Vương phu nhân tiếp:
-Con giỏi lắm! Bây giờ con lớn tuổi rồi, bất tất phải nghe lời ta nữa?
Vương Ngọc Yến vừa bực mình vừa sợ, nước mắt tuôn rơi nói:
-Câu
chuyện khiến mẫu thân hờn giận cữu phụ dĩ nhiên là cữu phụ có điều
không phải với mẫu thân. Cữu phụ khinh khi mẫu thân thế nào mẫu thân
chưa từng nói với con.
Vương phu nhân lớn tiếng hỏi:
-Con đã nghe ai thuật lại chưa?
Vương Ngọc Yến lắc đầu đáp:
-Mẫu
thân có cho con ra khỏi Mạn đà sơn trang bao giờ đâu? Cũng chẳng cho
một người ngoài nào tới đây thì còn ai kể cho con nghe nữa?
Vương phu nhân thở phào một cái nhẹ nhõm, giọng nói đã có vẻ hoà hoãn:
-Ta
muốn con thành người tử tế. Trên đời hạng lưu manh rất nhiều, chém ba
ngày không hết. Con còn nhỏ tuổi lại là phận gái, không cho thấy mặt bọn
chúng hay hơn.
Nói tới đây bà vụt nhớ ra chuyện gì lại tiếp tục:
-Còn
tên thợ trồng hoa họ Ðoàn, miệng nói tràng ba, khoát bảy không phải là
người tốt. Gã chỉ nói với con một câu là phải hạ sát ngay không để cho
gã nói đến câu thứ hai. Con có biết không?
Vương phu nhân lại hỏi:
-Con
không hạ thủ được chăng? xem chừng cái bộ mặt hiền lành, cái trái tim
mềm nhũn kia suốt một đời người sẽ bị không biết bao nhiêu lần bịp bợm.
Phu nhân vỗ tay hai cái, Tiểu Thi tiến lại gần. Phu nhân nói:
-Mi
truyền lệnh cho mọi người hay là ta ra lệnh: bất cứ ai còn nói với tên
thợ trồng hoa họ Ðoàn một câu nào là ta lập tức cho cắt lưỡi cả hai đứa.
Tiểu Thi nghe phu nhân nói sợ xám mặt, đáp một tiếng: "Vâng " rồi lui ra.
Vương phu nhân lại xua tay bảo cô:
-Con cũng đi ra!
Vương Ngọc Yến vâng lời chạy ra đến cửa dừng bước quay đầu lại nhắc:
-Xin mẫu thân tha cho A Châu, A Bích và dặn bọn y từ nay không được bén mảng tới đây nữa.
Vương phu nhân lạnh lùng đáp:
-Ta đã nói rồi mà! Có bao giờ ta nói hai lời đâu? Con đừng nhiều lời vô ích.
Vương Ngọc Yến nghiến răng nói khẽ:
-Con biết vì sao mà mẫu thân giận cữu phụ, vì sao mà mẫu thân giận biểu huynh rồi.
Dứt lời nàng dậm chân nhè nhẹ một cái, đoạn ra khỏi phòng. Phu nhân gọi:
-Trở lại đây đã!
Vương
Ngọc Yến nghe mẫu thân truyền lệnh đầy vẻ uy nghiêm lại bước vào phòng
cúi đầu không nói gì. Vương phu nhân vừa nhìn làn khói hương xanh ngắt
bay quanh đi quẩn lại vừa nói:
-Yến nhi! Con biết câu chuyện thế nào? đừng có giấu ta! Con nói hết đầu đuôi cho ta nghe!
Vương Ngọc Yến mím môi nói:
-Con
biết mẫu thân buồn vì cữu phụ không chịu đua hơi với đời, lại giận biểu
huynh chẳng chuyên tâm học võ để có thể sáng lập ra môn phái Mộ Dung.
Vương phu nhân cười lạt hỏi:
-Mi
còn là tuồng con nít, biết gì? Hơn nữa ta đã thành ngoại tộc rồi, có
còn ở trong họ Mộ Dung nữa đâu? Phái Mộ Dung lập nên được hay không, có
can dự gì đến ta?
Vương Ngọc Yến nói:
-Con biết rồi! Mẫu thân giận
mình phận gái không thì đã lập ra môn phái Mộ Dung rồi. Mẫu thân trách
cữu phụ cùng biểu huynh không chịu dốc lòng khôi phục Yên quốc, không
chịu chú trọng đến võ công.
Vương phu nhân hỏi:
-Ai đã nói với con như vậy?
Vương Ngọc Yến nói:
-Tự con đoán ra thế.
Vương phu nhân nói:
-Ta chắc là biểu huynh kể cho con nghe, đúng không?
Vương Ngọc Yến không muốn giấu mẫu thân mà cũng không chịu thừa nhận,nàng nín lặng không đáp.
Vương phu nhân lại nói:
-Biểu
huynh con đường đường tấm thân nam tử, lại lớn hơn con mười tuổi đầu
rồi mà không chịu học cho thành tài, không có chí tiến thủ, chỉ liêu
biêu chẳng chịu làm gì. Thậm chí võ công còn thua cả con nữa. Thế là
tiếng tăm nhà Mộ Dung bị y xoá nhoà rồi. Bốn chữ Cô Tô Mộ Dung oai phong
lẫm liệt dư trăm năm nay, võ công của biểu huynh con như vậy có xứng
đáng không?
Vương Ngọc Yến nghe nói nét mặt lúc đỏ bừng lúc nhợt nhạt, nhận thấy lời mẫu thân quả là đúng lý, không biết trả lời ra sao.
Vương phu nhân lại nói:
-Hiện
nay y lên chùa Thiếu Lâm, mấy tên thị tỳ hớt lẻo tự nhiên tong tả sang
đây mách con chứ gì? Chà y lên chùa Thiếu Lâm phen này không bõ người ta
chê cười cho thối óc hay sao? Ta chỉ cầu trời khấn Phật cho thiên hạ
đừng tin cái bị thịt đó là con em nhà Mộ Dung ở Cô Tô. Không chừng chỉ
đấu mấy hiệp là toi mạng nếu bọn họ không điều tra ra được là ai thế là
may lắm rồi.
Vương Ngọc Yến tiến lại gần ỏn thót:
-Mẫu thân! Xin
mẫu thân đi cứu biểu huynh con một phen. Họ Mộ Dung chỉ còn mình chàng
nối dõi nếu chàng có mệnh hệ nào thì nhà Mộ Dung ở Cô Tô phải đoạn tôn,
diệt tộc.
Vương phu nhân cười lạt đáp:
-Hừ! Cô Tô Mộ Dung! Nhà Mộ Dung có đoái hoài gì đến ta thì việc gì ta phải lo cho họ.
Phu nhân biết mình nói thế là lỡ lời vội xua tay nói:
-Thôi con đi ra đi!
Vương Ngọc Yến:
-Mẫu thân ơi! biểu huynh...
Vương phu nhân lớn tiếng:
-Con này mỗi lúc một bướng bỉnh thêm!
Vương
Ngọc Yến nuốt lệ, cúi đầu đi ra, cõi lòng trống rỗng, không có định
hướng, chẳng biết làm thế nào. Nằng cắm đầu đi tới dãy hành lang phía
Tây,thoảng nghe có tiếng người khẽ gọi:
-Cô nương! công việc ra sao?
Vương Ngọc Yến ngửng đầu nhìn xem ai té ra là Ðoàn Dự, nàng vội gạt đi:
-Ngươi... ngươi đừng nói gì với ta nữa.
Nguyên
từ lúc Vương Ngọc Yến đi khỏi, chàng tần ngần đi theo sau rồi đứng chờ
ngoài xa. Ngọc Yến ở trong phòng phu nhân đi ra, chàng cũng không tự chủ
được lẽo đeo theo sau, mới nhìn nét mặt sầu thảm của nàng chàng đã biết
ngay
Vương phu nhân không ưng liền nói:
-Phu nhân không thương cho thì ta tính cách khác chứ sao?
Vương Ngọc Yến buồn rầu đáp:
-Mẫu
thân ta không nghe thì còn cách nào nữa? Người... người còn bảo biểu
huynh ta lâm nguy và người bỏ mặc không ứng cứu. Nàng càng nói càng đau
lòng,không cầm được nước mắt. Ðoàn Dự hỏi:
-Mộ Dung công tử cũng lâm nguy ư?
Rồi chàng sực nhớ ra điều gì nói tiếp:
-Võ công cô nương còn hơn công tử một bậc, sao cô nương không đi cứu chàng?
Vương Ngọc Yến mắt đẫm lệ ngước lên nhìn Ðoàn Dự trừng trừng, tựa hồ như câu chàng nói rất là kỳ dị. Lâu lâu nàng mới đáp:
-Ta... ta đi thế nào được? Việc này mẫu thân còn khe khắt hơn.
Ðoàn Dự mỉm cười:
-Dĩ
nhiên là phu nhân không cho rồi. Cô nương không biết tự mình lén ra đi
hay sao? Chính tôi đây cũng bỏ nhà trốn đi, rồi sau trở về cả gia gia và
má má tôi cũng thôi, có trách phạt gì đâu?
Vương Ngọc Yến nghe lời chàng khác nào ánh lửa soi vào chỗ tối. Nàng tự nhủ:
"phải
lắm! Ta lén đi cứu biểu huynh ta, khi trở về đến bị mẫu thân đánh đòn
là cùng chứ gì? Dù người có giết ta thì ta cũng đã cứu biểu huynh ta
rồi". Nàng nghĩ đến chuyện đi cứu biểu huynh mà chịu gian nan vất vả thì
lòng nàng vừa chua xót lại vừa phấn khởi. Nàng lẩm bẩm một mình:
-Gã này đã trốn nhà ra đi. ồ mà sao trước nay ta không nghĩ đến chuyện này?
Ðoàn Dự cực lực cổ võ cho nàng:
-Cô nương cứ chui rúc ở xó Mạn đà sơn trang này mãi sao không chịu ra ngoài
mà xem bao cảnh hùng vĩ, thế giới bao la?
Vương Ngọc Yến lắc đầu nói:
-Ta
tưởng cũng chẳng có gì đáng xem. Ta chỉ cần đi tiếp ứng biểu huynh để
xem chàng có gặp nguy hiểm gì không nhưng ta chưa từng ra khỏi cửa nên
chẳng biết Thiếu Lâm tự ở phương nào.
Ðoàn Dự vội nói:
-Tôi xin đi với cô nương, dọc đường có chuyện gì cô nương chưa rành nhất thiết tôi sẽ ứng phó giùm cho là được.
Vương Ngọc Yến đang lúc chưa có chủ ý gì, nàng phân vân chưa quyết thì Ðoàn Dự lại hỏi luôn:
-Còn bọn A Châu, A Bích ra sao?
Vương Ngọc Yến đáp:
-Mẫu thân ta không chịu nhiêu dung.
Ðoàn Dự nói:
-Trời
không chịu đất thì đất chẳng chịu trời. Nếu để bọn này nị chặt chân tay
tất biểu huynh cô nương sẽ trách cứ đến cô. Sao bằng cứu cả hai nàng đó
rồi cả bốn người ta cùng giông thẳng một lèo?
Ngọc Yến lắc đầu lè lưỡi nói:
-Ðó là một hành động đại nghịch, khi nào mẫu thân ta chịu để yên? Ngươi thật là một gã bạo hổ hằng hà.
Ðoàn
Dự đoán tâm lý biết rằng ngoại trừ việc có liên quan đến biểu huynh
nàng thì không còn điều gì lay chuyển được nàng liền dùng kế tấn công
bằng cách xin thoái bộ, chàng nói:
-Ðã thế thì chúng ta ra đi tức
khắc, bỏ mặc hai nàng A Châu, A Bích cho phu nhân chặt tay. Sau này biểu
huynh cô nương có hỏi đến thì chỉ việc bảo chàng mình không hay biết gì
là xong. Tôi nhất định giữ bí mật chuyện này.
Vương Ngọc Yến vội đáp:
-Không được! Không được! Thế thì ta dối trá cả biểu huynh ta hay sao?
Nàng ngần ngừ một lúc rồi than rằng:
-Trời
ơi! A Châu, A Bích là hai tên thị nữ tâm phúc của chàng, hầu hạ chàng
từ thuở nhỏ, chẳng khác chi tình ruột thịt, nếu để bọn y bị cụt chân cụt
tay thì họ Mộ Dung sẽ cùng họ Vương kết thành một mối thâm cừu.
Nàng dẫm chân xuống đất nói:
-Ngươi đi theo ta!
Ðoàn Dự nhìn nàng đi như bay về góc tây bắc trong lòng rung động thầm nghĩ:
"giả
tỷ mình đừng khuyên nàng cứu A Châu, A Bích có phải giữa Mộ Dung công
tử và nàng có một mối chia rẽ trầm trọng không? nhưng nếu mình giữ ý
nghĩ độc ác như vậy, giương mắt ra mà nhìn Châu, Bích bị thảm hình thì
lòng không yên".
Ta nên biết rằng Ðoàn Dự tuy ăn phải bả tình cực kỳ
trầm trọng nhưng tâm địa chàng rất lương thiện, không chịu hại người để
lợi cho mình.
Chớp mắt Vương Ngọc Yến đã đến cửa một căn nhà đá lớn, cất tiếng gọi:
-Bình má má! Mụ ra đây ta bảo.
Bỗng từ trong thạch ốc vẳng ra một chuỗi cười "khặc khặc" và giọng nói rất khô khan:
-Cô nương đến coi mụ chế hoa phì đó phải không?
Lúc
nãy Ðoàn Dự đã nghe thấy U Thảo cùng Tiểu Thi bảo A Châu và A Bích đã
bị tống vào trong "hoa phì phòng" gì đó nhưng chàng không để ý. Bây giờ
lại nghe giọng nói hắc sì sì "chế hoa phì", bất giác khẽ la lên:
-Trời
ơi! họ làm đồ bón hoa! Phải rồi! Vương phu nhân thật là tàn nhẫn đến
cùng cực, đem người chôn sống, chặt ra để bón trà, chỉ chậm lát nữa là A
Châu, A Bích sẽ bị chặt tay để dùng vào việc này. Bây giờ biết làm thế
nào?
Trống ngực đánh thình thình, mặt chàng cắt không còn hột máu.
Vương Ngọc Yến nói:
-Bình má má ơi! mẫu thân có việc cần, mụ ra ngay đây.
Trong thạch ốc lại có tiếng hỏi vọng ra:
-Bình má má đang mắc câu chuyện. Phu nhân có việc chi cần kíp mà cô nương phải thân hành đến đây?
Vương Ngọc Yến nói:
-Mẫu thân ta bảo... chà! Ðã đem bọn chúng đến đây chưa?
Nàng
vừa nói vừa bước vào trong nhà đá. Nhìn thấy A Châu, A Bích bị trói
treo lên hai cây cột sắt, miệng nhét đầy hạt trái cây. Hai mắt nàng đẫm
lệ mà miệng nói không ra tiếng. Ðoàn Dự cũng ghé đầu vào coi, thấy hai
nàng chưa việc gì mới hơi yên tâm. Nhưng khi nhìn ra hai bên thì trống
ngực lại đánh hơn trống làng. Một mụ già lưng còng đầu tóc bạc phơ, tay
cầm một lưỡi gươm trường sáng loáng, bên cạnh mụ là cái vạc nước sôi
sùng sục.
Vương Ngọc Yến cười nói:
-Mẫu thân ta bảo mụ hãy buông hai đứa này ra để ta dẫn chúng lên cho người tra hỏi ngọn ngành một việc khẩn cấp đã.
Bấy
giờ Bình má má mới quay mặt ra. Ðoàn Dự thấy mụ nhe cặp răng nanh nhọn
hoắt chìa ra ngoài miệng, dường như để cắn người lạ mặt thì trong lòng
cảm thấy khó chịu vô cùng. Bỗng thấy mụ gật đầu nói:
-Vâng tra hỏi cho ra gốc ngọn, rồi lại đưa chúng nó xuống đây chặt chân tay.
Mụ còn càu nhàu một mình:
-Bình má má này bình sinh rất ghét những đứa gái xinh đẹp. Hai con lỏi này đem chặt chân tay đi là phải.
Ðoàn
Dự nghe mụ nói tức lắm nghĩ bụng: "mụ la sát độc ác này không biết đã
giết chết bao nhiêu người rồi. Tiếc rắng sức mình trói gà không chặt,
không thì tát cho mụ gẫy mấy cái răng rồi hãy gỡ cho A Châu, A Bích ra".
Bình má má tuy tuổi già nhưng còn thính tai lắm. Ðoàn Dự đứng bên ngoài thở mạnh bị mụ nghe rõ, mụ liền hỏi:
-Ðứa nào đứng ngoài đấy?
Rồi mụ thò đầu ra ngoài trông thấy Ðoàn Dự, trong lòng sinh nghi hỏi ngay:
-Mi là ai?
Ðoàn Dự cười đáp:
-Tôi là thợ trồng hoa, vâng lệnh Vương phu nhân trông mấy khóm bạch trà, đến đây hỏi má má xem có đồ bón chưa?
Bình má má đáp:
-Mi chờ một lúc nữa sẽ có!
Mụ quay sang hỏi Vương Ngọc Yến:
-Tiểu thư! Mộ Dung thiếu gia cưng hai con nha hoàn này lắm phải không?
Vương Ngọc Yến không biết nói dối, buột miệng trả lời:
-Ðúng rồi! Mụ đừng giết chúng hay hơn.
Bình má má gật đầu nói:
-Tiểu thư! Phải chăng phu nhân đang nhập định?
Vương Ngọc Yến đáp:
-Phải rồi!
Nàng vừa buột miệng đã biết lỡ lời giơ tay lên bịt miệng lại. Ðoàn Dự ngấm ngầm than rằng:
-Chết rồi! Cô này không biết nói dối.
Bình má má giả vờ tuổi già lẫn lộn, làm bộ tuyệt không để ý đến chỗ vô tình bại lộ, mụ nói:
-Dây trói chặt quá, tiểu thư lại đây giúp tôi một tay để cởi chúng nó ra.
Vương
Ngọc Yến gật đầu bước tới cạnh A Châu để cởi trói thì đột nhiên đánh
tách một tiếng, một cái móc sắt hình cánh cung từ trong cột sắt bật ra,
quàng lấy chiếc lưng thon Ngọc Yến rồi thít chặt vào.
Vương Ngọc Yến
kêu rú lên một tiếng. Cái vòng sắt chụp lấy lưng nàng chỉ còn hở có vài
tấc, nàng cựa thế nào cũng không thoát ra được.
Ðoàn Dự cả kinh chạy lại quát hỏi:
-Mi làm trò gì thế này? Mau buông tiểu thư ra!
Bình má má lại rú lên mấy tiếng cười khành khạch, nói:
-Phu
nhân đã nhập định, khi nào còn truyền đem hai con lỏi này lên tra hỏi?
Hơn nữa thiếu chi thị nữ, nha hoàn mà tiểu thư phải thân hành đến đây?
Trong việc này tất còn có nhiều uẩn khúc kỳ quặc. Tiểu thư! Hãy chờ đây
một lát để mụ lên bẩm lại phu nhân rồi sẽ xuống nói chuyện.
Nguyên "Hoa phì phòng" này Vương phu nhân dùng làm chỗ chém giết người.
Trong
nhà đá đặt đủ các cơ cấu chế phục tù đồ, muốn giết chóc cách nào thì
tha hồ mà hạ thủ. Bình má má là một tay thâm độc vô cùng, xuất thân
trong nghề hắc đạo với cái ngoại hiệu "độc cước nữ đạo". Tay mụ đã gây
ra không biết bao nhiêu vụ huyết án, giết bao nhiêu mạng người. Vương
phu nhân chế phục được mụ rồi, thấy mụ tinh lanh được việc, giao cho mụ
công tác chém giết tại "hoa phì phòng". Mụ làm rất đắc lực. Mụ thấy cử
chỉ nói năng của Vương Ngọc Yến có nhiều chỗ khả nghi, mụ còn biết rõ
Vương phu nhân rất oán ghét nhà Mộ Dung và thầm lo võ nghệ tiểu thư cực
kỳ lợi hại, mình quyết không địch nổi. Giả tỷ nàng đã ra lệnh mà mình
không nghe tất đi đến chỗ cưỡng bức mình phải tha người. Mụ đành tính
nước liều, phát động cơ quan để giữ nàng lại.
Vương Ngọc Yến tức giận nói:
-Mụ không phải lên đâu, xuống đâu, buông tha ta ngay!
Bình má má đáp:
-Thưa
tiểu thư! Tiểu thư xét lại cho, mụ lúc nào cũng giữ tấc dạ trung thành
với phu nhân, không dám làm điều gì mảy may lầm lẫn. Xin tiểu thư chờ mụ
lên hỏi lại phu nhân, nếu quả đúng như lời tiểu thư, thì mụ xin đập đầu
tạ tội với tiểu thư sau.
Vương Ngọc Yến rất đỗi hoang mang, gọi giật lại:
-Này này! Mụ đừng hỏi lại mẫu thân ta nữa! người làm ầm lên bây giờ!
Bình
má má vốn là một mụ đại gian ngoan, thấy nàng hốt hoảng như vậy càng
nhìn rõ Ngọc Yến phản bội mẫu thân, giở trò quỷ quái lừa bịp mình để gỡ
hai đứa thị tỳ tâm phúc của biểu huynh nàng. Mụ biết rõ là tiểu thư giả
truyền hiệu lệnh
của phu nhân. Nếu mình hớ hênh thả hai đứa này ra là nàng thừa cơ đưa đi tức khắc. Mụ đáp:
-Không sao! Tiểu thư chờ đây một lát! Mụ xin trở lại ngay mà!
Vương Ngọc Yến vẫn cố ngăn lại nói:
-Mụ đừng đi! hãy buông tha ta rồi hãy nói chuyện.
Bình má má khi nào chịu nghe nàng. Mụ trở gót đi ngay ra cửa. Ðoàn Dự thấy sự tình nguy cấp, vội giơ tay ra cản đường cười nói:
-Mụ phải thả tiểu thư ra trước đã rồi hãy lên hỏi phu nhân, có hay hơn không?
mụ
không nhớ người ta thường nói rằng: "Quan xa bản nha gần" hay sao? Mụ
là người ngoài, đắc tội với tiểu thư thì không yên thân được đâu.
Bình má má liếc đôi mắt ti hí nhìn Ðoàn Dự, rồi nghẹo đầu nói:
-Thằng lỏi này xem ra cũng có điều xảo trá đây.
Mụ
vừa nói vừa giơ tay chụp lấy cổ tay Ðoàn Dự. Chàng vừa bị mụ giữ chặt
mạch môn đã cảm thấy toàn thân bị tê liệt. Tuy trong người chàng có nội
lực cực kỳ thâm hậu song không biết sử dụng chịu để cho Bình má má lôi
lại bên cột sắt,bấm nút cơ quan. Vừa "cách" một tiếng, cái vòng thép đã
bật ra chụp ngang lưng chàng.
Bình má má vừa chạm bàn tay vào cổ tay
Ðoàn Dự đã cảm thấy nội lực trong mình cuồn cuộn thoát ra không ngớt,
khó chịu quá không biết đến đâu mà kể. Mụ đưa vòng thép quàng lấy lưng
chàng xong liền giật tay ra ngay.
Ðoàn Dự thấy tình trạng nguy ngập quá liền giơ tay lên vừa ôm chặt lấy cổ tay mụ vừa nói:
-Mi chớ đi!
Bình má má cả giận quát lên:
-Buông tay ra!
Mụ
mở miệng quát, chân khí trong người càng tiết ra mau. Ðoàn Dự từ khi ở
chùa Thiên Long được bá phụ truyền thụ cho biết cách thu nạp chân khí
vào huyệt đan điền nên nội lực trong người Bình má má bị "chu cáp thần
công" hút sang
người chàng, chàng vận dụng cho về chỗ chứa, không đến nỗi để chạy lung tung trong người như trước.
Bình má má cố sức cựa quậy mà không sao gỡ ra khỏi hai cánh tay Ðoàn Dự ôm ghì lấy. Mụ càng kinh hãi la lên:
-Mi... mi biết phép "hoá công đại pháp" phải không? mau buông ta ra!
Ðoàn
Dự đối diện với bộ mặt quỷ dạ xoa của mụ, chỉ cách chừng một vài tấc mà
lưng chàng bị vòng thép xiết chặt, không thể nào quay mặt ra chỗ khác
được, phải nhìn bộ răng lồi vàng khè của mụ mà nôn oẹ. Nhưng chàng biết
đang ở trong tình trạng nguy ngập khác nào khối nặng ngàn cân treo đầu
sợi tóc. Giả tỷ mình buông tha mụ ra thì Vương Ngọc Yến tất nhiên sẽ bị
trọng trách mà tính mạng mình cùng A Châu, A Bích cũng không bảo toàn
được. Chàng đành nhắm mắt lại để khỏi phải nhìn thấy bộ mặt khiếp đảm
của mụ.
Bình má má vẫn tiếp tục la:
-Mi... mi có buông tha ta không?
Tiếng mụ đã phều phào gần như kiệt lực.
Ta
nên nhớ rằng nội lực trong thân thể Ðoàn Dự càng nhiều thì hấp lực của
"chu cáp thần công" càng mạnh. Buổi đầu tiên "chu cáp thần công" hút
chân khí của bọn Phá Tham còn mất nhiều thì giờ về sau lại hút thêm toàn
bộ nội lực của Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử, rồi một phần nội lực
của Bảo Ðịnh Ðế và mấy vị hoà thượng chùa Thiên Long. Bây giò chàng hút
nội lực của Bình má má trong giây lát là hết. Bình má má tuy là người
hung hãn nhưng nội lực làm gì có nhiều nên chỉ trong thời gian uống cạn
tuần trà là tinh thần mụ đã bạc nhược, hơi thở yếu ớt, luôn miệng nói
mấy câu: "Buông ta ra! Buông ta ra!" như người hết hơi.
Ðoàn Dự nói:
-Mụ phải mở cơ quan tha ta trước đã.
Bình má má chịu nước lép nói:
-Xin vâng! Xin vâng!
Ðoàn
Dự buông tay trái mụ ra, chỉ giữ một tay mặt để mụ thò tay vào gầm bàn
bấm nút cơ quan. Sau tiếng lách cách, chiếc vòng thép há ra rồi co về
chỗ.
Ðoàn Dự lại trỏ tay bảo mụ phải buông tha cả Vương Ngọc Yến cùng A Châu, A Bích.
Về Đầu Trang Go down
Oz Vessalius
Tướng Quân
Tướng Quân
Oz Vessalius

Tổng số bài gửi : 95
Điểm Thưởng : 5149
Độ Tin Tưởng : 104
Join date : 05/01/2011

Thiên Long Bát Bộ - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ   Thiên Long Bát Bộ - Page 2 I_icon_minitimeThu Jan 06, 2011 5:30 pm

Hồi 32

Trổ Tài Miệng Lưỡi Áp Ðảo Quần Hùng




Bình má má đưa ngón tay ra ấn vào nút cơ quan tự động đã giữ
chặt Vương Ngọc Yến tiểu thư nhưng cơ quan này vẫn trơ ra đó, không nhúc
nhích tý nào.
Ðoàn Dự cả giận hỏi:
-Mi không chịu tha tiểu thư phải không?
Bình má má vẻ mặt sầu khổ đáp:
-Tôi kiệ t lực mất rồi.
Ðoàn
Dự tự mình thò tay vào gầm bàn sờ nút bấm, ấn đánh "toách" một
tiếng,cái vòng thép chịt lưng Vương Ngọc Yến tự động mở ra rồi co về nằm
trong cột sắt.
Ðoàn Dự cả mừng nhưng chưa dám thả Bình má má ngay.
Chàng lượ m thanh đao ở dưới đất, chí vào cắ t đứt dây trói tay A Bích. A
Bích rảnh tay rồi đón lấy thanh đao cắt đứt dây trói cho A Châu, hai
người lại móc hết hạt trái cây trong
miệng ra rồi vừa mừng vừa sợ, hồi lâu không nói ra tiếng.
Vương Ngọc Yến trừng mắt nhìn Ðoàn Dự mấy lần, nét mặt nà ng lộ vẻ kỳ dị hỏi:
-Ngươi biết phép "hoá công đại pháp" ư?
Ðoàn Dự lắc đầu đáp:
-Ðó không phải là môn "hoá công đại phá p" đâu!
Rồi
chàng toan thuật hết đầu đuôi cho Vương Ngọc Yến nghe nhưng một là vì
câu chuyện rất dài hai là vị tất Vương Ngọc Yến đã tin nên chàng bịa ra
một tên gọi cho xuôi chuyện:
-Ðây chỉ là môn "thái dương dung tuyết
công" do phép Nhất Dương Chỉ và Lục mạch thần kiếm biến hoá ra mà thôi.
Môn "thái dương dung tuyết công" cùng môn "hoá công đại pháp" khác nhau ở
chỗ một đằ ng chính một đằng tà, một đằng thiện,một đằng ác, không thể
coi là một được.
Vương Ngọc Yến tin ngay, mỉm cười nói:
-Quả là ta
có điều không phải với ngươi, vì kiến văn hẹp hòi. Về phép Nhất Dương
Chỉ của họ Ðoàn nước Ðại Lý ta có biết được chút đỉnh còn phép Lục mạch
thần kiếm thì mới biết tiếng mà thôi. Sau này sẽ xin thỉnh giáo.
Ðoàn Dự chỉ mong mỹ nhân hỏi tới đã cho là mình có phướ c lắm rồi, vội vàng đáp ngay:
-Nếu tiểu thư hỏi đến tôi xin trình bày gan ruột, đâu dám giấu diếm?
A
Châ u, A Bích thật không khi nào ngờ đến phút khẩn cấp cuối cùng Ðoàn
Dự tới giải cứu, lại thấy chàng cùng tiểu thư trò chuyện thân mật đều
lấy làm kỳ dị. A Châu nói:
-Thưa cô nương! cháu xin cảm tạ cái ơn cứu
mạng! bây giờ ta phải bắt cả mụ Bình má má đưa đi để khỏi lo mụ tố giác
những điều bí mật.
Bình má má nói:
-Tôi... tôi...
Mụ chưa dứt lời, A Châu một tay giữ chặt đầu, một tay cầm hạt trái cây nhét vào miệng mụ.
Ðoàn Dự nói:
-Phải lắm! đúng với thủ đoạn nhà Mộ Dung "gậy ông đập lưng ông".
Vương Ngọc Yến nói:
-Ta đi với bọn ngươi một chuyến xem tình hình... chàng ra sao.
A Châu, A Bích cả mừng nói:
-Ðược cô nương ra đi viện trợ cho công tử thì còn gì hay bằng?
Hai
ả lôi Bình má má đến cạnh cột sắt rồi bấm nút tự động đưa vòng thép ra
giữ chặt lấy mụ. Ðoạn bốn người lẹ làng đẩy phiến đá đóng cửa thạch ốc
lại, lanh chân chạy ra bờ hồ. Bốn người chạy ra đến hồ may chẳng gặp một
ai, cùng nhau bước xuống thuyền nhỏ. A Châu, A Bích hạ mái chèo, quay
mũi thuyền, chèo đi.
Vương Ngọc Yến rút kim thoa trên đầu ra, vạch
một chiếc la bàn 64 cách, đặt cành kim thoa vào trung tâm la bàn, ánh
mặt trời chênh chếch chiếu vào bóng cành thoa,ánh xuống mặt la bàn,
Vương Ngọc Yến giơ tay ra trỏ nẻo. Con thuyền ở giữa vùng khơi sóng bao
la trên mặt hồ đầy lá lăng, vòng mé đông rồi quay sang mé Tây đi ra.
Ðoàn Dự rất là khâm phục khen nàng:
-Cô nương tuy chưa ra khỏi cửa mà hiểu biết cả thiên văn, địa lý.
Vương Ngọc Yến mỉm cười nói:
-Ðó là những điều ta xem trong sách, chẳng hiểu công dụng có hiệu nghiệm không?
A
Châu cùng A Bích chèo hồi lâu, con thuyền nhỏ lúc lướt dọc, lúc đi
ngang, lúc lượn vòng vũng vịnh mà không thấy quay trở lại Mạn Ðà sơn
trang, bấy giờ ai nấy mới vững tâm.
Ðoàn Dự hỏi Vương Ngọc Yến:
-Cô nương! tôi còn có điều này chưa hiểu. Tỷ dụ chúng ta trốn đi ban đêm,không có mặt trời để chiếu la bàn thì làm thế nào?
Ngọc Yến mỉm cười đáp:
-Dễ lắm! Tinh tú trên trời là la bàn đó. Cứ ngẩng đầu lên nhìn là biết.
A
Châu, A Bích cùng Ðoàn Dự ba người luân phiên nhau chèo thuyền ra khỏi
miền phụ cận Mạn đà sơn trang. Hết các nẻo quanh co cùng vũng vịnh thì
hai ả A Châu, A Bích đã biết đường đi trên mặt hồ. Trời đã xế bóng, trên
mặt hồ sương chiều mỗi lúc một dày, A Châu nói:
-Thưa cô nương! Ðây
đã gần đến chỗ cháu ở rồi. Cô nương hãy tạm trú lại đây đêm nay để
thương nghị việc đi tìm công tử nên chăng?
Ngọc Yến nói:
-Cũng đành thế vậy.
Thuyền
đi càng xa Mạn đà sơn trang phong cảnh lại càng tịch mịch. Ðoàn Dự thấy
gió thoảng mặt hồ làm lay động tà áo Ngọc Yến. Lúc đó trời đã hoàng
hôn,sương lạnh lăm lăm, Ðoàn Dự cảm thấy nỗi thê lương tràn ngập. Những
cảm giác vui tươi lúc mới ra đi nhạt dần. Chèo thuyền một lúc nữa, trông
mặt mũi mọi người đã có vẻ đờ đẫn như buồn ngủ. Chợt phía đông nhìn
thấy ánh đèn le lói A Bích nói:
-Chỗ có ánh đèn lửa kia là Thính hương tinh xá của A Châu tỷ nương.
Thuyền liền nhắm thẳng phía có ánh lửa bơi tới. Ðoàn Dự lẩm bẩm:
-Ðời
ta khó lòng lại có được một buổi như hôm nay. ước gì con thuyền cứ lênh
đênh mãi trên mặt hồ, vĩnh viễn đừng đến chỗ sáng đèn lửa kia có phải
hay không?
Bất thình lình trước mặt một tia sáng loé ra, bên trời một
vì sao đổi ngôi xẹt qua,kéo thành một cái đuôi rất dài. Vương Ngọc Yến
miệng rì rầm nói điều gì, Ðoàn Dự nghe không rõ. Lúc đó trời đã tối mịt,
không nhìn rõ mặt, chỉ nghe thấy nàng thở dài rất não ruột.
A Bích an ủi nàng bằng một giọng rất êm ái:
-Cô
nương hãy yên lòng. Công tử thường gặp dữ hoá lành. trước nay biết bao
nhiêu lần gặp nguy hiểm mà rồi công tử đã qua khỏi được hết.
Ngọc Yến nói:
-Nếu
chàng đi Cái Bang, thì ta chẳng có gì quan tâm cho lắm, còn đi chùa
Thiếu Lâm thì không phải chuyện chơi. Về 72 môn tuyệt kỹ của phái này
chàng đã hiểu cả nhưng đó là từ trước. Phái này đã nổi tiếng mấy trăm
năm nay, giả tỷ họ còn học thêm được môn gì khác biệt thì ôi thôi...
Nàng dậm chân nói tiếp:
-Bữa nay gặp sao đổi ngôi, ta xem ra thì điều ước nguyện không thể thành tựu được.
Theo
tục truyền tại miệt Giang Nam, khi sao đổi ngôi người nào cầu nguyện
khấn khứa tất lời rồi thì việc khó đến đâu cũng được toại nguyện. Nếu
sao lướt ngang lời cầu còn giang dở, sao đã biến mất rồi thì việc không
thành. Hàng ngàn
năm nay, nhiều cô gái Giang Nam chiêm nghiệm điều đó mà hy vọng tràn trề hoặc vì đó mà sinh thất vọng.
Vương
Ngọc Yến tuy là người hiểu biết rất nhiều lại cực kỳ tinh thông võ nghệ
cũng chưa thoát khỏi thường tình của cô gái quê mùa.
Ðoàn Dự nghe
nàng than vãn trạnh mối thương tâm. Tuy chàng biết rõ điều ước nguyện
của nàng nhất định có liên quan đến Mộ Dung công tử và hẳn là cầu cho gã
đặng bình yên, mọi sự như ý.
Ðoàn Dự tự hỏi: "ở trên đời này bao
giờ có cô gái nào như Vương cô nương đây khấn thầm cầu khẩn cho ta
chăng? trước kia có Mộc Uyển Thanh rất yêu ta nhưng sau khi nàng biết ta
là anh ruột dĩ nhiên sẽ có mối tình cùng người khác, không biết hiện
giờ y ở đâu? Và đã gặp được ai như ý lang quân chưa? còn Chung Linh! Vị
tiểu cô nương này hãy còn ngân thơ, chưa biết mùi thế sự. Có lúc nàng
tưởng tới ta thì cũng chẳng qua là ngẫu nhiên tâm động trong chốc lát
rồi chuyện đâu bỏ đó, quyết không bằng Vương cô nương tha thiết với ý
trung nhân, mối tình dường như đã chép xương, ghi dạ. Ôi bá phụ cùng gia
gia lại còn hỏi Cao tiểu thư cho ta làm vợ. Ta chưa từng gặp tiểu thư
lần nào. Nàng xấu
đẹp, thấp cao ta cũng không biết nữa. Ta không tưởng nhớ nàng tất nhiên nàng cũng chẳng tưởng nhớ đến ta".
Con thuyền đi mỗi lúc một gần lại, A Châu nói khẽ bảo A Bích:
-A Bích! Em thử coi! Dường như có sự gì lạ lắm!
A Bích gật đầu nói:
-Sao đèn đuốc nhiều thế kia?
Rồi nàng mỉm cười nói tiếp:
-A Châu tỷ nương ơi! trong nhà chị làm gì náo nhiệt như đêm nguyên tiêu vậy?
Ðèn đuốc sáng trưng, không chừng họ ăn mừng ngày sinh nhật chị.
A Châu lẳng lặng không nói gì. Nàng chỉ nhìn ánh đèn lửa chiếu xuống mặt hồ.
Lúc
đó Ðoàn Dự đã nhìn thấy rõ tám chín gian nhà dựng trên một cái cù lao
nhỏ,trong đó có hai căn nhà lầu. ánh đèn lửa do các cửa sổ chiếu ra
ngoài. Chàng thầm nghĩ: "chỗ A Châu ở đây gọi là thính hương tinh xá
cũng tương đương với cầm vận tiểu trúc của A Bích. Mộ Dung công tử đối
đãi với hai cô nữ tỳ này thật là công bằng. Cầm vận tiểu trúc thì cách
bài trí thanh nhã còn thính hương tinh xá lại ánh lửa huy hoàng, mỗi nơi
một vẻ khác nhau".
Thuyền còn cách thính hương tinh xá chừng một dặm, A Châu dừng chèo nói:
-Vương cô nương! kẻ địch vào nhà rồi!
Vương Ngọc Yến giật mình hỏi dồn:
-Sao kẻ địch đến à? Sao ngươi biết? Ai vậy?
A Châu đáp:
-Chưa biết bọn nào nhưng ngửi thấy mùi rượu xông lên nồng nàn thì đúng là hạng khách bất nhân đến phá quấy rồi.
Vương
Ngọc Yến hít hơi thật mạnh để ngửi xem nhưng chẳng thấy gì. Cả A Bích,
Ðoàn Dự cũng chẳng thấy mùi gì khác lạ. Chỉ có mình A Châu rất thính
mũi,nàng ngửi thấy mùi lạ từ đằng xa. Nàng nói tiếp:
-Hỏng bét! Thật
là hỏng bét! Bọn chúng lấy cả rượu hoa nhài cùng Mai quế lộ ra uống.
Trời ơi! khổ rồi! Cả vô hàn mai hoa lộ chúng cũng đem ra uống vung uống
vãi.
Mấy câu sau nàng nói như muốn khóc, Ðoàn Dự rất lấy làm kỳ hỏi:
-Mắt cô tinh đến thế kia ư? Nhìn thấy rồi hay sao?
A Châu nghẹn ngào đáp:
-Không phải tôi trông rõ nhưng ngửi thấy rồi. Tôi tốn bao tâm cơ mới chế được thứ rượu đó, bọn gian ác này đem ra uống mất rồi.
A Bích hỏi:
-A Châu tỷ nương ơi! chị tính sao đây? Ta tránh đi hay lên bờ động thủ?
A Châu nói:
-Chưa rõ bọn địch có lợi hại lắm không?
Ðoàn Dự cũng xen vào:
-Phải
đó! Nếu chúng lợi hại quá thì ta tránh đi là hơn. Băng chúng chỉ là
hạng tầm thường thì mình lên giảng giải cho chúng để những vật báu của
chị A Châu đã bị tổn hại...
Ba thiếu nữ thấy chàng nói thế đều sửng
sốt. Ai nấy trừng trừng nhìn chân tay con người quờ quạng dường như
chẳng biết chút võ công nào mà sao tại hoa phì phòng Bình má má hung hãn
là thế vừa mó vào chàng dây lát đã mất hết nội lực,tuyệt không kháng cự
được chút nào. Chẳng biết chàng có phải vào hạng võ công thượng thừa mà
cố ý làm bộ một gã thư sinh yết ớt.
Vương Ngọc Yến hỏi:
-Ngươi lên bờ mà gặp phải bọn võ nghệ ghê gớm chúng đánh ngươi giết ngươi thì làm thế nào?
Ðoàn Dự đáp:
-Họ đánh giết thì tôi đành chịu nhưng xem ra vận hạn tôi rất tốt việc gì cũng gặp dữ hoá lành cả.
Trong lòng chàng tự nhủ: "giả tỷ ta có vì nàng mà phải bỏ mạng cũng cam tâm".
Vương
Ngọc Yến vẫy tay trái một cái, ngón tay nàng đã điểm tới huyệt thái
dương chàng. Thái dương là một trong các huyệt đạo sinh tử của con
người, chỉ điểm mạnh một cái là chết liền. Bất luận là người có võ công
cao cường đến đâu
cũng không thể để huyệt đạo này bị phong toả được.
Trong đêm tối, Ðoàn Dự mờ mịt chẳng biết chi rằng mình bị nguy trong
khoảnh khắc. A Bích trông thấy giật mình kêu rú lên còn A Châu thì hiểu
rằng chẳng qua Vương Ngọc Yến thử xem Ðoàn Dự là người không biết võ
công thật hay giả vờ nên nàng chỉ chú ý nhìn chứ không nói gì. Ngón tay
Vương Ngọc Yến chỉ còn cách thái dương huyệt Ðoàn Dự không đầy một tấc
mà Ðoàn Dự chẳng biết gì cả, vẫn nói tự nhiên:
-Ba vị cô nương còn nhỏ tuổi thế này mà lên gặp chúng thì không được đâu.
Ngọc Yến từ từ rút tay về hỏi:
-Ngươi chưa học qua võ công thật ư?
Ðoàn Dự cười đáp:
-Nếu cái môn "thái dương dung tuyết công" mà chưa phải là võ công thì ngoài ra tôi chưa học môn nào cả.
A Châu nói:
-Tôi có kế này. Bây giờ bọn ta tìm quần áo cải trang là lũ ngư ông, ngư bà.
Nàng chỉ về phía đông nói tiếp:
-Mấy nhà chài lưới kia tôi quen lắm.
Ðoàn Dự vỗ tay cả cười nói:
-Tuyệt diệu! Tuyệt diệu!
A
Châu bèn trở chèo bơi quay sang phía đông. Một dải dân chèo này ở gần
thính hương tinh xá , ngày thường họ vẫn đi lại chơi với A Châu. A Châu
đưa Ngọc Yến,A Bích vào mượn quần áo để cải trang. A Châu trá hình làm
một bà lão chài, Ngọc Yến, A Bích hoá trang thành hai ngư bà đứng tuổi,
đoạn gọi Ðoàn Dự vào sau, mặc quần áo giả làm ngư ông ngoài bốn chục
tuổi. Thuật hoá trang của A Châu thật tinh diệu tuyệt luân. Nàng trát
phấn, trát bột cho cả bốn người một loáng đã xong cả, người nào người ấy
không còn ai nhận ra được bộ mặt cũ nữa. Nàng lại mượn nào thuyền nào
lưới nào cần câu nào cá sống. Ðoạn chèo thuyền về thính hương tinh xá.
Ðoàn Dự cùng Ngọc Yến tuy tướng mạo cải trang được nhưng giọng noi và cử chỉ vẫn lòi đuôi, học đòi A Châu thế nào được?
Ngọc Yến cười nói:
-A Châu! Mọi việc đều do ngươi ứng phó, bọn ta chỉ có giả câm là tài.
A Châu cũng cười đáp:
-Phải đó! Cô nương đừng nói gì xen vào!
Thuyền
bơi đến gần tinh xá thấy xung quanh chỗ nào cũng trồng toàn dương liễu.
Trong nhà vẳng ra những tiếng thô lỗ cùng tiếng gọi nhau ơi ới làm cho
căn nhà u nhã, hoa lệ rối loạn cả lên, mất cả ý nghĩa của nó.
A Châu bật lên những tiếng thở dài ngao ngán. A Bích ghé vào tai nàng nói nhỏ:
-A Châu tỷ nương! Ðể tống cổ bọn địch đi rồi, em sẽ giúp chị một tay để sắp xếp lại.
A
Châu nắm chặt tay A Bích để thầm cảm ơn mỹ ý của nàng. A Châu dẫn ba
người lên bờ, đi quanh vào nhà bếp thì gặp trù sư của mình tên gọi Lão
Cố, mặt mũi đầy mồ hôi mồ kê, đang nhổ bọt giãi phì phì vào chảo thức ăn
rồi không ngớt xoa tay cho ghét cáu rớt xuống chảo. A Châu trông thấy
vừa tức vừa buồn cười bảo:
-Lão cố! Ngươi làm gì đó?
Lão cố giật mình đánh thót một cái, quay ra hỏi:
-Mụ... mụ...
A Châu cười nói:
-Ta là A Châu cô nương đây mà!
Lão Cố cả mừng nói:
-Cô nương ơi! một bọn phá gia ở đâu đến, bắt ép tôi phải thổi cơm và nấu thức ăn cho chúng! Cô nương lên mà xem!
Lão vừa nói vừa xì mũi, ném toẹt vào chảo thức ăn, rồi toét miệng ra cười hềnh hệch.
A
Châu cùng A Bích đang lúc phải chú ý hết sức để đối phó với cục diện
cực kỳ nghiêm trọng mà thấy cử chỉ trẻ con của lão trù sừ béo ỵ cũng
không thể nhịn cười được.
Nguyên bọn địch này ở đâu đến kẻ réo người
quát, uy hiếp lão phải nấu ăn và hầu hạ chúng. Lão không làm thế nào
được đang tức mình pha những thứ dơ bẩn vào món ăn thì A Châu về tới
nơi. A Châu chau mày hỏi:
-Sao ngươi làm đồ ăn dơ bẩn thế?
Lão cố vội đáp:
-Món
ăn của cô nương thì lúc tôi nấu nướng tôi phải rửa thật sạch. Còn cho
những quân phá gia này ăn phí của nên tôi pha những thứ dơ bẩn vào cho
chúng ăn.
A Châu nói:
-Từ nay ngươi làm món ăn cho ta, ta cũng ghê tởm quá.
Lão cố nói:
-Cô nương xơi thì khác hẳn, đâu dám làm thế?
A
Châu tuy làm thị nữ cho Mộ Dung công tử nhưng là chủ nhân thính hương
tinh xá. Dưới quyền cũng đủ đầy tớ, đầu bếp, phu bơi thuyền, thợ trồng
hoa phục vụ cho nàng.
A Châu hỏi:
-Bọn địch có bao nhiêu tên?
Lão cố đáp:
-Bọn trước đến chừng 15, 16 đứa, bọn sau đến 20 đứa.
A Châu lại hỏi:
-Những hai bọn kia à? Chúng thuộc về hạng nào? Coi cách ăn mặc và giọng nói có biết chúng ở đâu không?
Lão cố hậm hực:
-Mẹ chúng nó.
Câu chửi tục vừa ra khỏi cửa miệng, lão tự biết là vô lễ, vội đưa tay bịt miệng,sợ hãi tiếp:
-Xin
lỗi cô nương. Lão cố này tội thật đáng chết. Hai toán này thì một toán
là loài man mọi phương bắc, có vẻ toàn là cường đạo, còn một toán nữa
người Tứ Xuyên, tên nào cũng mặc bào trắng, không rõ chúng thuộc về đạo
nào.
A Châu hỏi:
-Họ đến đây tìm ai? Có người nào bị thương không?
Lão cố đáp:
-Toán
cường đạo thứ nhất cũng như toán cổ quái thứ hai khi vào tới nơi là
chúng tra hỏi công tử ở đâu? Tôi bảo công tử vắng nhà nhưng chúng không
tin, lùng khắp nơi tìm kiếm một hồi. Các nha hoàn trong nhà chạy trốn
hết, còn mình tôi tức quá,mẹ...
Lão toan chửi câu nữa nhưng kịp rút
lưỡi lại, chưa tuôn ra hết câu. A Châu thấy mắt bên trái lão tím bầm,
còn một nửa mặt sưng vù lên chắc là bị chúng đánh đau,trách nào lão
chẳng nhổ đờm giãi cùng xoa tay dơ vào các món ăn cho hả giận?
A Châu trầm ngâm một lát rồi nói:
-Thôi được! Ðể chúng ta lên coi.
Lão
cố nói không minh bạch. Nàng dẫn Ngọc Yến, Ðoàn Dự, A Bích ba người
theo cửa ngách ra khỏi nhà bếp, xuống dàn hoa, chui qua cổng tò vò đi về
phía cửa nhà đại sảnh.
Ðoàn Dự là Vương tử nước Ðại Lý, giàu sang từ
nhỏ, nên nhìn hoa cỏ cùng cách kiến trúc thính hương tinh xá không lấy
gì làm lạ mắt nếu là người thường mà trông thấy phong cảnh huy hoàng của
cô hầu còn thế này tất cho là chính nơi công tử Mộ Dung ở, có lẽ sang
trọng hơn cả bậc vương hầu.
Còn cách cửa sổ phía sau nhà khách sảnh
chừng vài trượng đã nghe tiếng người huyên náo rất phức tạp. Chẳng những
Ðoàn Dự ở tận chốn biên thuỳ hẻo lánh,Vương Ngọc Yến chưa từng ra khỏi
phòng the nên nghe tiếng nói líu lo thì tưởng họ là những hạng người cổ
quái mà chính A Châu người đã chuyên tìm hiểu về các loại thổ âm vừa
nghe họ nói cũng nhận thấy ngay những đặc điểm kỳ dị. Bọn người đang la ó
om sòm này toàn giọng thổ khàn. A Châu tuy đã hiểu nhiều tiếng địa
phương mà cũng nghe không rõ. Cứ như lời Lão cố thì trong bọn này có
nhiều người Tứ Xuyên mà sao bây giờ nàng không nghe thấy một giọng nào
Tứ Xuyên cả.
A Châu thoăn thoắt lại bên hàng dài cửa sổ, đưa ngón
tay chọc thủng giấy dán vè ghé mắt nhòm vào thấy trong nhà đèn lửa sáng
trưng về đầu phía đông. Mười tám gã đại hán to lớn lực lưỡng đang ăn
uống lu bù. Trên bàn thì chén bát bừa bãi,dưới đất thì ghế đổ ngả
nghiêng, gã ngồi chồm hỗm trên bàn, còn gã không dùng đũa, tay cầm đùi
gà hoặc miếng thọt bò to tướng cắn ăn. Có gã cầm thanh đao dài để cắt
thịt, cá ra từng miếng rồi dùng mũi nhọn đao xiên vào đưa lên miệng ăn. A
Châu xem cách cử chỉ của bọn này rõ ràng là những tay hào kiệt bên
ngoài quan ải. Nàng nhìn bọn người ngồi đằng đông một lúc rồi lại nhìn
đầu đằng tây. Ban đầu nàng không lưu ý nhưng nhìn lâu một hồi, bất giác
mình sởn gai ốc, sau lưng lạnh toát như bị gáo nước lạnh dội vào. Nguyên
hơn hai mươi người trên này đều mặc áo bào trắng, ngồi nghiêm chỉnh,
trên bàn thắp một cây nến nhỏ, ánh sáng yếu ớt chiếu ra bất quá độ vài
thước vuông. Sáu bảy người ngồi gần ngọn nến nên trông rõ, người nào
cũng khô đét, thân hình gầy khẳng kheo, mặt trơ như gỗ, đã không lộ
vẻ
vui mừng lại không ra chiều giận dỗi, trông tựa như xác chết cả. A Châu
càng nhìn càng sợ, những người này ngồi ỳ ra chẳng nói câu gì, họ chỉ
khác những thây ma ở chỗ mí mắt thỉnh thoảng còn hơi mấp máy một chút.
A Bích đến gần A Châu, cầm lấy tay nàng thì thấy bàn tay lạnh ngắt mà hơi run.
A Bích cũng chọc thủng cửa sổ để ngó trộm. Nàng vừa nhìn vào cũng giật mình kinh sợ, khẽ kêu lên một tiếng "trời ơi".
Hai
tiếng "thình thình" vang lên, cửa sổ đã bị phá vỡ. Bốn người trong đại
sảnh nhảy vọt ra là hai gã đại hán ngoài ải bắc và hai quái khách ở Tứ
Xuyên.
Hai gã đại hán quát hỏi:
-Ai đó?
A Châu đáp:
-Chúng tôi vừa bắt được mấy con cá tươi, đến hỏi xem lão đầu có mua không?
hôm nay có cả tôm tươi nữa.
Nàng
bắt chước tiếng thổ âm người Tô Châu. Hai gã đại hán nghe không hiểu
nhưng thấy bốn người ăn mặc theo kiểu dân chài, tay cầm cá cầm tôm đang
giãy
ngoay ngoảy thì biết ngay là bọn đến bán tôm cá. Một gã đại hán giật lấy con cá ở trong tay A Châu và gọi rối rít:
-Nhà bếp! Nhà bếp! đem mấy con cá này xuống nấu cháo ăn cho giã rượu.
Còn
gã nữa đón lấy con cá trong tay Ðoàn Dự. Hai gã đại hán lấy cá rồi
không nói năng gì nữa, quay gót đi vào nhà khách. Lúc đi qua mình A Bích
một mùi hôi thối tựa như mùi cá ươn đã mười ngày xông vào mũi nàng. A
Bích không nhịn được, giơ tay áo lên bịt mũi. Tay áo nàng tụt xuống để
lộ cánh tay nhỏ nhắn, trắng như tuyết. Một gã người Tứ Xuyên nhanh mắt
trông thấy, sinh nghi: một bà già đứng tuổi, sao da dẻ lại nõn nà. Gã
liền quờ tay ra nắm lấy A Bích hỏi:
-Mụ già này bao nhiêu tuổi?
A Bích giật mình hất tay gã ra nói:
-Mi làm trò gì vậy?
Tiếng
nàng êm ái trong lanh lảnh, cái hất tay lại lẹ làng mà gã người Tứ
Xuyên đã cảm thấy tê dại. Gã vội nhảy ra xa mấy bước. Bốn gã thấy vậy
kêu váng lên.
Hơn mười người từ trong nhà khách nhảy ra, vây lấy bọn
Ðoàn Dự. Một gã đại hán thò tay ra rứt bộ râu giả của Ðoàn Dự, bộ râu
rớt xuống đất, một gã đưa tay ra chụp xuống A Bích. A Bích né người đi
rồi đẩy mạnh một cái làm cho lão té lăn xuống đất. Một gã đứng đường sau
đưa kiếm ra phạt ngang. A Bích cúi đầu tránh khỏi,nhưng nàng quên rằng
trên đầu mình còn có mớ tóc giả búi ngược lên đỉnh đầu,cao đến hơn một
tấc so với ngày thường. "Soạt" một tiếng, mớ tóc hoa râm giả tuột xuống
để hở mái tóc đen láy của nàng ra.
Gã đại hán càng la lớn tiếng hơn:
-Có gian tế! Có gian tế! Bọn chúng cải trang lọt vào đây. Phải bắt nó đem ra tra khảo đã.
A Châu giận lắm hỏi lại:
-Ðây là nhà ai? Kẻ nào là gian tế?
Bọn hán tử xúm lại đẩy bốn người vào nhà khách đến trước mặt một ông già ngồi đầu phía Ðông bẩm báo:
-Thưa trại chủ! Ðã bắt được bọn gian tế hoá trang làm dân chài. Xin đưa vào trình trại chủ.
Ngọc
Yến cùng A Châu, A Bích thấy trong nhà khách nhốn nháo cả lên. Ba nàng
đều là tay võ nghệ siêu quần nhưng còn non tuổi, kiến thức còn kém
cỏi,phân vân chưa biết nên động thủ ngay hay hãy để xem chừng, chờ đến
lúc bất đắc
dĩ sẽ ra tay. Ðoàn Dự thì lại mù mịt về võ công, trông
tướng mạo chẳng biết ai mạnh, ai yếu. Bốn người ngơ ngác nhìn nhau chưa
biết tính thế nào cho phải đành đứng trước mặt lão già để xem lão phát
lạc ra sao.
Lão già này tướng mạo khôi ngô hùng vĩ, một chòm râu bạc
dài trùng xuống trước ngực. Trong tay trái lão có ba trái nhạc sắt kêu
leng keng. Lão quát hỏi bọn Ngọc Yến:
-Bọn mi làm gian tế ở đâu đến mà giở trò tinh quái ranh ma? Chắc không phải hạng tử tế.
Ngọc Yến nói với A Châu:
-Hoá trang làm một bà già chẳng thú gì cả. A Châu! Ta chẳng hoá trang nữa đâu.
Nói
rồi nàng bỏ món tóc giả ra, lại giơ tay lên xoa mặt một cái những phấn
bột nhồi thành vết nhăn rơi xuống lả tả. Bọn hán tử thấy mụ chài đứng
tuổi đột nhiên biến thành một vị nữ lang nhan sắc tuyệt trần đều miệng
há hốc, giương mắt ra mà nhìn. Trong sảnh đường bỗng trở nên im phăng
phắc. Những quái khách bào trắng ngồi ở đầu đằng tây cũng trố mắt toé
lửa ra nhìn nàng. Ngọc Yến bảo đồng bọn:
-Các ngươi cũng trút bỏ hết đồ hoá trang đi!
Rồi nàng quay lại nhìn A Bích cười nói:
-Chỉ tại ngươi làm tiết lộ.
Mặc
dù xung quanh bao nhiêu mắt hung dữ đổ dồn vào mình Ngọc Yến vẫn coi
như không thấy gì. Nét mặt thản nhiên, dường như không thèm để tâm đến
bọn người lợi hại này. A Châu, A Bích, Ðoàn Dự nghe lời Ngọc Yến đều xoa
hết những thứ bôi mặt đi. Mọi người đã thấy Ngọc Yến tuyệt đẹp, lại
thấy A Châu, A Bích cũng là những vị cô nương hoa nhường nguyệt thẹn đều
sửng sốt, không ngờ trên thế gian lại có những người kiều diễm đến thế.
Một lúc lâu lão già khôi ngô lại cất tiếng hỏi:
-Các ngươi là ai, đến đây có chuyện gì?
A Châu cười nói:
-Tôi
là chủ nhân Thính hương tinh xá này mà lại có người ở đâu đến hỏi tôi
là ai mới kỳ chứ? Bây giờ tôi hỏi lại: các ông là ai? đến đây có chuyện
gì?
Lão già nói:
-Thế à? Nếu cô là chủ nhân đây càng hay. Phải chăng cô là Mộ Dung tiểu thư?
Mộ Dung Bác có phải là gia gia cô không?
A Châu mỉm cười đáp:
-Tôi chỉ là một tên nha hoàn. Làm gì có diễm phúc được làm con gái lão gia tôi?
các hạ là ai? đến đây có việc gì?
Lão gia thấy A Châu tự xưng là một nha hoàn có ý không tin, trầm ngâm giây lát rồi mới nói:
-Cô mời chủ nhân cô ra đây, ta sẽ nói cho hay đến đây làm gì.
A Châu nói:
-Chủ
nhân tôi đi vắng. Các hạ có điều chi cứ nói với tôi cũng thế. Tôn tính
đại danh chẳng lẽ cũng không cho tôi biết được hay sao?
Lão già đáp:
-Tôi là Diêu trại chủ Tần gia trại ở Vân Châu. Diêu Bá Ðương chính thị là ta.
A Châu nói:
-Tôi đã từng được nghe đại danh và rất đem lòng ngưỡng mộ.
Diêu Bá Ðương cười nói:
-Cô còn là cô bé nhỏ xíu đã biết gì?
Ngọc Yến nói:
-Tần
trại gia ở Vân Châu có môn võ nổi tiếng là "ngũ hổ đoạn môn đao". Ngày
mà Diêu Công Vọng tự sáng chế ra nó có tất cả 64 thế. Người sau quên mất
năm thế, tôi lại nghe nói ngày nay chỉ còn 59 thế! Diêu trại chủ! Trại
chủ học bao nhiêu thế?
Diêu Bá Ðương cả kinh buột miệng hỏi ngay:
-Môn "ngũ hổ đoạn môn đao" của Tần trại gia 64 thế sao cô nương lại biết?
Vương Ngọc Yến lạnh lùng đáp:
-Tôi
xem sách nói rõ như vậy chẳng biết có đúng không? 5 thế thiếu mất đi là
"bạch hổ thiêu giản", "nhất khiếu phong sinh", "tiễn phác tự như",
"hùng bá quần sơn" và "phục tượng thắng sư" có đúng vậy không?
Diêu
Bá Ðương vuốt râu ngẫm nghĩ. Lão biết rằng đao pháp của phái mình có
khiếm khuyết mất 5 thế rất quan hệ nhưng 5 thế bị thất truyền đó thì bất
luận là ai cũng không hiểu là những thế gì. Bây giờ lão nghe Vương Ngọc
Yến đọc ra vanh vách thì trong bụng vừa kinh ngạc vừa hoài nghi nên
không biết đáp lại ra sao.
Trong đám khách bào trắng ngồi ở mé tây có
một gã hán tử tuổi ngoại tứ tuần thuộc về môn hộ âm dương quái khí cất
tiếng hỏi Ngọc Yến:
-Môn "ngũ hổ đoạn môn đao" của Tần gia trại oai
danh chấn động đất Hà Sóc dù có khiếm khuyết mất 5 thế tưởng cũng chẳng
quan hệ gì đến đại thể? Xin hỏi cô nương gọi Mộ Dung Bác bằng gì?
Vương Ngọc Yến đáp:
-Mộ Dung lão gia là cữu phụ tôi. Còn tôn tính đại danh các hạ là gì?
Gã hán tử cười lạt đáp:
-Cô
nương là một học giả uyên thâm, mới trông qua Diêu trại chủ đã biết
tường tận võ công của ông. Vậy lai lịch tại hạ thế nào cô nương thử đoán
coi!
Ngọc Yến mỉm cười đáp:
-Các hạ trổ ra cho coi một vài ngón may ra tôi có đoán được chăng? chứ chỉ nói suông vài câu thì tôi không đoán ra được.
Gã hán tử gật đầu đáp:
-Ðúng thế!
Ðoạn
gã đút tay trái vào trong áo bên phải và tay phải vào trong tay áo bên
trái,tựa như trời rét phủ tay cho ấm, nhưng lúc gã rút tay ra thì trong
mỗi tay cầm một thứ khí giới. Tay trái cầm một ngọn thiết chuỳ dài chừng
sáu bảy tấc, mũi chuỳ nhọn mà có hai chỗ cong. Tay phải cầm một cây bát
giác tiểu truỳ, dài chừng một thước, đầu cây trùy này không lớn bằng
nắm tay người thường. Hai thứ binh khí này nhỏ bé xinh xắn và lóng lánh,
tựa như đồ chơi của trẻ nít. Cứ trông bề ngoài thì những thứ này dùng
vào việc chiến đấu không tiện chút nào.
Trong đám đại hán ngoài ải
bắc ngồi ở phía đông trông thấy hai thứ binh khí cổ quái này có mấy
người phải phì cười. Một gã cười vang lên nói:
-Ðây là những đồ chơi của trẻ nít ở Tứ Xuyên bày ra cho mọi người coi đó.
Vương Ngọc Yến nói:
-O!
đây là môn "lôi công oanh". Chắc các hạ sở trường về môn khinh công và
sử dụng ám khí. Trong sách nói "lôi công oanh" là môn độc nhất có thứ
binh khí đặc biệt của phái Thanh Thành ở Tứ Xuyên. Trong hai chữ Thanh
Thành ghép lại đem tách riêng ra thì chữ "thanh" có 18 thế, chữ "thành"
có 36 thế. Toàn là những thế kỳ lạ biến trá không biết đâu mà lường
được. Phải chăng các hạ họ Tư Mã?
Gã đứng tuổi vừa nghe lời Ngọc Yến đã biến sắc. Gã cùng hai gã phụ tá, ba người nhìn nhau một hồi rồi mới đáp:
-Võ
học nhà Mộ Dung ở Cô Tô quả là uyên thâm không ai bì kịp, tiếng đồn
thật chẳng sai. Tại hạ là Tư Mã Lâm xin hỏi lại cô nương: phải chăng chữ
"thanh" có 18 thế đánh còn chữ "thành" có 36 thế phá?
Vương Ngọc Yến đáp:
-Các
hạ nêu ra câu hỏi này là phải. Tôi cho là "thanh" phải 19 thế mới đúng
vì hai thế "bồ đề tử" và "thiết liên tử" bề ngoài tuy giống nhau nhưng
cách ứng dụng lại khác nhau xa không thể hợp vào một được. Còn 36 thế
phá chữ "thành" thì ba thế "phá giáp", "phá thuẫn", "phá bài" chẳng có
gì là kỳ dị đặc biệt nên bỏ đi mà chỉ để 33 thế mới hay.
Bọn Tư Mã
Lâm nghe đoạn đều phải sửng sốt. Về chữ "thanh" họ mới học được 11 thế
đánh. Còn những thế "thiết liên tử", "bồ đề tử" gì gì đó và khác nhau
thế nào họ chẳng hiểu gì cả. Ðến "phá giáp", "phá thuẫn", "phá bài" là
ba thế họ đắc ý nhất và tự cho là những tuyệt kỹ bí truyền của môn phái
thì không ngờ bị thiếu nữ lại bảo bỏ đi vì không ích gì. Họ rất kinh
ngạc về sự hiểu biết của Vương Ngọc Yến và rất tức giận về sự chê bai ba
thế phá thích nhất của họ. Họ nghĩ thầm: "nhà Mộ Dung định làm nhục
mình, thêu dệt nên những thuyết quái quỷ như vậy và cho một cô gái nhỏ
tuổi ra liến thoắng bịp mình". Tư Mã Lâm là một tay rất thâm, y vẫn giữ
thái độ bình tĩnh đáp:
-Ða tạ cô nương chỉ giáo. Khác nào ở chỗ tối tăm được nhìn thấy ánh sáng?
Y trầm ngâm một lát nghĩ ra được một kế quay sang bảo gã phụ tá ngồi mé tả:
-Chử sư đệ! Sư đệ ra lĩnh giáo cô nương đi!

phụ tá mặt đầy sứt sẹo trông thật xấu xa, chừng ngoài 50 tuổi, mình đã
mặc áo bào trắng, đầu còn quấn khăn trắng, chẳng khác chi người vận hiếu
phục. Dưới ánh sáng lờ mờ bầu không khí càng trở nên ảm đạm. Tên y là
Chử Bảo Côn, y đã biết võ rồi tìm thầy học thêm, đến làm môn hạ phái
Thanh Thành. Y lớn hơn Tư Mã Lâm 10 tuổi nhưng nhập môn sau nên đành làm
sư đệ. Bản tính y thâm trầm,đến Tư Mã Lâm cũng không hiểu lai lịch y.
Có hỏi thì y trả lời một cách hàm hồ.
Tư Mã Lâm chỉ biết đại khái là y
võ công rất giỏi không kém gì mình mà thôi. Giờ sai ra hỏi Vương Ngọc
Yến tưởng đã đắc sách: nếu Vương Ngọc Yến không biết gốc tích y thì làm
cho đối phương mất kiêu ngạo, mà Ngọc Yến có biết rõ lai lịch thì cũng
giải được mối hoài nghi cho mình từ trước tới nay.
Chử Bảo Côn đứng
lên, thò tay vào trong tay áo, lấy ra hai thứ binh khí: một ngọn chuỳ
ngắn và một cây búa nhỏ cũng giống hệt binh khí "lôi công oanh" của Tư
Mã Lâm rồi nói với Ngọc Yến:
-Xin cô nương chỉ điểm cho!
Những
người xung quanh đều mắng thầm: "binh khí của mi chẳng khác gì binh khí
của Tư Mã Lâm, cô gái này đã hiểu rõ Tư Mã Lâm chẳng lẽ lại không biết
mi hay sao?".
Vương Ngọc Yến cũng đáp:
-Các hạ đã sử dụng binh khí "lôi công oanh" thì dĩ nhiên cũng trong phái Thanh Thành chứ gì?
Tư Mã Lâm nói ngay:
-Chử sư đệ đây đã biết võ nghệ rồi mới đến Thanh Thành nhập môn. Gốc tích y ở môn nào xin cô nương chỉ thị cho.
Ngọc Yến nghĩ thầm: "vấn đề này nan giải đây". Nàng chưa kịp đáp thì Tần trại chủ Diêu Bá Ðương ngồi bên kia đã cướp lời:
-Tư
Mã chưởng môn! Chưởng môn yêu cầu cô nương nói rõ bộ mặt ngày trước của
lệnh sư đệ là có ý gì vậy? Tôi thấy điều ấy thật vô thú vị.
Tư Mã Lâm ngạc nhiên hỏi:
-Sao lại vô thú vị?
Diêu Bá Ðương cười châm chọc:
-Bộ mặt của lệnh sư nay đã chạm trổ tinh vi, thế thì còn gì để mà khảo cứu ra được cái dĩ vãng của nó nữa?
Bọn
đại hán ngồi đầu phía đông nghe Diêu Bá Ðương nói nhìn lại mặt Chử Bảo
Côn thấy đầy sứt sẹo tức thời cười vang lên. Tiếng cười to đến nỗi những
ngọn đèn lửa phải tạt đi tạt lại. Chử Bảo Côn bản tính thâm độc. Bình
nhật y ghét cay ghét đắng kẻ nào cười y mặt rỗ sứt sẹo. Người nào vô ý
nhìn mặt y nhưng giữ mặt thản nhiên như không chú ý thì không sao, bằng
lộ vẻ kinh dị hoặc chau mày, nhăn mặt ra vẻ khó chịu thì y phải làm
người đó thành sống giở chết giở mới nghe. Bây giờ y nghe Diêu Bá Ðương
công nhiên chế diễu mình trước mặt mọi người thì nhịn sao được? Hơn nữa
mặt mũi y đã xấu lại ở trước mặt một bọn nam nữ thanh lịch trách nào y
chẳng căm hận những người cứ hau háu nhìn y? Thế là y chẳng nể mặt Diêu
Bá Ðương vừa là một vị anh hào đất bắc vừa là một vị trại chủ, tay trái y
cầm mũi cương chuỳ nhắm thẳng phía trước Diêu Bá Ðương, tay phải cầm
mẩu dây buộc ở đuôi chuỳ phóng mạnh ra đánh véo một tiếng như xé bầu
không khí bắn đến trước ngực Diêu. Diêu Bá Ðương tuy đã biết trước mình
buông lời chế diễu tất đối
phương chẳng chịu để yên nhưng không ngờ
đối phương hạ độc thủ phóng ám khí lanh như thế. Trong lúc nguy cấp,
không kịp rút đao ra gạt vội cầm cái đế đèn trên bàn nhằm ám khí đánh
bật lại. Một tiếng "keng" vang dội ám khí bắn lên trần nhà.
Nhìn ra
thì là một mũi cương châm tuy nó chỉ dài hơn ba tấc nhưng sức mạnh vô
cùng. Chả thế mà nó đụng vào đế đèn làm cho hổ khẩu Diêu Bá Ðương phải
tê nhức, đế đèn rơi xuống đất. Bọn Tần trại gia vừa rút đao ra loảng
xoảng vừa la lên:
-Dùng ám khí hại người, thật là đồ hèn nhát.
Một
gã béo ỵ còn văng những câu tục ra chửi mắng thậm tệ. Mọi người bên
Thanh Thành nguyên thuộc môn hộ "âm dương quái khí" vẫn nín thinh. Quần
hào Tần gia trang muốn chửi mắng thế nào thì chửi họ cũng lờ đi như
không nghe
tiếng.
Diêu Bá Ðương để rơi cái đế đèn xuống đất, theo
quy củ võ lâm thế là thua một đòn rồi. Lão nghĩ bụng: "võ công bên đối
phương có nhiều tà đạo mà bên mình chỉ biết đem gươm đao ra tranh đấu
một cách quang minh chính đại. Cứ như lời tiểu cô nương đây vừa nói thì
18 thế thuộc về chữ "thanh" tựa hồ những thế đánh này có điều ám muội
bên trong, bọn mình chỉ sơ ý một tý là bị chúng ám toán.
Nghĩ vậy Diêu Bá Ðương khoát tay ra hiệu cho đồng đảng yên lặng rồi hỏi Chử Bảo Côn:
-Vừa rồi Chử huynh đệ cho ra một đòn cực kỳ lợi hại, cái đòn hiểm độc đó gọi là gì vậy?
Chử Bảo Côn chỉ cười khành khạch chứ không trả lời. Gã đại hán béo ỵ bên Tần trại gia nói móc:
-Chắc gọi là đòn "ám tiến hại người, cần chi thể diện?".
Mấy gã khác cũng nhao nhao lên mạt sát Chử Bảo Côn. Ngọc Yến thấy vậy lắc đầu lên tiếng bằng một giọng êm ái:
-Diêu trại chủ! Trại chủ có điều lầm lỗi rồi.
Diêu Bá Ðương hỏi:
-Cô nương bảo sao?
Ngọc Yến đáp:
-Bất
luận là ai khó lòng giữ cho thân thể khỏi bị tàn tật. Có người vì bệnh
hoạn mà tàn tật, người thì sơ ý té một cái cũng có thể bị què chân. Giao
chiến với người khác, không địch nổi cũng có thể bị đui mắt, cụt tay là
thường. Bạn hữu trong võ lâm, thân thể bị tổn thương phỏng có chi là
lạ? Có phải thế không trại chủ?
Diêu Bá Ðương chỉ đáp gọn một tiếng:
-Vâng
Ngọc Yến lại nói:
-Chử
gia đây thuở nhỏ bị bệnh, thân thể thành vết ngấn thì có gì đáng cười?
Bàn về nhân phẩm các bậc kỳ nam tử đại trượng phu thì thứ nhất là đạo
đức, thứ hai là tài năng sự nghiệp, thứ ba là văn học võ công. Chử gia
đây có phải giả trang làm đàn bà đâu, vậy thì dong mạo có tuấn tú hay
không cũng chẳng can hệ gì.
Diêu Bá Ðương bị Vương Ngọc Yến dồn cho một hồi, câm họng không còn biết nói sao, đành cười khà khà đáp:
-Tiểu cô nương nói thật đúng lý. Ðã thế thì xin lỗi Chử huynh đệ về câu nói diễu cợt vừa rồi.
Ngọc Yến mỉm cười nói:
-Lão gia thản nhiên nhìn nhận lỗi mình, đủ biết người là bậc quang minh lỗi lạc.
Nàng quay lại lắc đầu nói với Chử Bảo Côn:
-Ðừng hành động nữa! cái đó vô dụng!
Nàng
nói câu này với nét mặt ôn nhu, lại có vẻ về bè với Chử, tựa hồ chị
khuyên em trong lúc vội giận mất khôn. Lời nói của nàng ngụ ý cực kỳ
thân thiết.
Về Đầu Trang Go down
Oz Vessalius
Tướng Quân
Tướng Quân
Oz Vessalius

Tổng số bài gửi : 95
Điểm Thưởng : 5149
Độ Tin Tưởng : 104
Join date : 05/01/2011

Thiên Long Bát Bộ - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ   Thiên Long Bát Bộ - Page 2 I_icon_minitimeThu Jan 06, 2011 5:31 pm

Hồi 33

Vương Cô Nương Liệu Ðịch Như Thần




Lờ i Vương Ngọc Yến nói với Chử Bảo Côn, người ngoài cố nhiên
không hiểu mà chính Chử Bảo Côn bóp óc cũng không nghĩ ra. Còn những lời
biện giải của nàng: "Những nhân vật võ lâm trong người có thương tích
là việc thông thường,như cơm bữa. Những bậc kỳ nam tử đại trượng phu
phải lấy phẩm cách sự nghiệp làm đầu". Luận điệu đó đã làm cho y hết sức
hể hả, vì trong đời y từ trước tới giờ,trong lòng lúc nào cũng buồn bực
về cái bộ mặt rỗ chằng rỗ chịt của mình mà chưa từng được ai biện hộ
cho mình một cách thành khẩn và hữu lý như thế! Khi nghe nàng nói đến
câu: "Ðừng hành động nữa, cái đó vô dụng", y không hiểu ra sao nên hỏi
lại:
-Cô nương nói gì vậy?
Trong bụng y nghĩ thầm:
-Chắc nàng
cho miếng "Thiên Vương Bổ Tâm Châm" của ta không thi hành được và vô
dụng đây. Nàng có biết đâu trong chiếc chùy của ta có cả thảy 12 mũi
châm kia mà? Nếu phát ra liên tiếp, thì tánh mạng lão già đã đi đứt từ
lâu rồi.
Chính ra ta giết chết lão lúc nào mà chả được, chỉ vì trước
mặt Tư Mã Lâm, nên ta không muốn tiết lộ bí mật mà thôi. Vương Ngọc Yến
đáp:
-Miếng "Thiên Vương Bổ Tâm Châm" của Chử gia quả là một thứ ám
khí rất bá đạo... Chử Bảo Côn giật mình đánh thót một cái, rú lên:
-Chà!

Mã Lâm và ba vị cao thủ khác trong phái Thanh Thành nghe tới "Thiên
Vương Bổ Tâm Châm" đều sửng sốt cất tiếng hỏi: -Cô nương bảo sao?
Chử Bảo Côn biến sắc, đánh trống lảng:
-Cô
nương nói sai rồi. Ðó không phải là "Thiên Vương Bổ Tâm Châm" mà là ám
khí của phái Thanh Thành chúng tôi, tên gọi "Thanh Phong Ðinh" đòn đánh
thứ 7 trong các đòn thuộc chữ "Thanh". Ngọc Yến tủm tỉm cười đáp:
-"Thanh
Phong Ðinh" không những về hình thức bên ngoài giống thế, mà về thủ
pháp cũng như khí cụ dùng để phát ra, "Thiên Vương Bổ Tâm Châm" với
"Thanh Phong Ðinh" hoàn toàn giống nhau. Song có điều về tính chất căn
bản của ám khí,không căn cứ ở hình thức bên ngoài và cách phát xạ, mà
phải căn cứ vào kình lực và khí thế. Khi phát ra một mũi phi tiêu, mỗi
người có một thủ kình riêng, phái Thiếu Lâm ra phái Thiếu Lâm, phái Hoa
Sơn ra phái Hoa Sơn, không thể miễn cưỡng làm cho giống nhau được, ám
khí đó của ngươi là... Ngọc Yến chưa dứt lời,đã thấy Chử Bảo Côn sát khí
đằng đằng, thốt nhiên chiếc cương chùy cầm ở tay trái đưa lên ngang
trước ngực, chỉ còn cầm chuôi chùy bật một cái, tức thời những mũi cương
châm ở trong sẽ bắn thẳng vào Ngọc Yến.
Chử Bảo Côn tuy là người rất
hiểm ác, song thấy Ngọc Yến kiều diễm như thế, vẫn không sao đang tay
hạ sát được. Y lại nghĩ tới những lời nàng vừa biện giải bênh mình. Vì
không đang tâm giết nàng để bịt miệng, y chỉ quát: -Cô nương!
Ðừng có nhiều lời nữa mà tự mang lấy họa vào thân.
Ngọc Yến mỉm cười đáp:
-Ngươi
không hạ thủ giết ta, ta cũng cảm ơn. Nhưng dù ngươi có hạ thủ cũng vô
dụng. hai phái Thanh Thành và Bồng Lai, đời đời cừu thù nhau. Cái việc
mà ngươi định mưu đồ đó, trước đây hơn 80 năm, Hải Phong Tử đạo trưởng,
vị chương môn thứ bảy của quý phái, đã từng thử qua rồi. Tài năng cũng
như võ công của ông, e rằng chẳng kém gì các hạ đâu. Ðoàn Dự, A Châu, A
Bích, Diêu Bá Dương và Tư Mã Lâm thấy đầu chiếc cương chùy của Chử Bảo
Côn lăm lăm chĩa đúng vào trước ngực Vương Ngọc Yến, ai nấy đều run sợ
thay cho nàng.
Cứ xem như lúc nãy Chử Bảo Côn phóng cương châm nhằm
bắn Diêu Bá Dương, thế đi rất mau, kình lực rất mạnh, không một ám khí
nào sánh kịp, rõ ràng là bên trong chiếc chùy đó có đặt máy móc, chứ sức
người thì không thể nào mạnh được thế. Cũng may mà Diêu Bá Dương mắt
sáng tay nhanh, nên mới thoát chết.
Nếu y mà nhằm bắn vào Ngọc Yến,
một vị cô nương yêu kiều non nớt như thế, thì làm sao mà tránh kịp? Mọi
người đều nhận thấy nguy cơ ngay trước mắt, mà Ngọc Yến vẫn thản nhiên
như không, miệng lại còn kể ra một chuyện đại bí mật trong võ lâm.
Những nhân vật cao thủ trong phái Thanh Thành, người nào cũng chằm chặp nhìn vào Chử Bảo Côn, đầy vẻ nghi hoặc, họ tự hỏi:
-Có
lẽ y là môn hạ phái Bồng Lai, kẻ tử thù đối đầu của phái Thanh Thành,
đã trà trộn vào nội bộ của chúng ta chăng? Sao y lại nói toàn tiếng Tứ
Xuyên? Mà không thổ lộ một câu nào bằng tiếng thổ âm Sơn Ðông nhỉ?
Nguyên phái Bồng Lai ở trên bán đảo Sơn Ðông, hùng bá cả miền Ðông Hải.
Phái
Thanh Thành thì ở Tứ Xuyên. Tuy một phái ở phía Ðông, một phái ở phía
Tây, xa cách riêng biệt nhau, song từ hơn trăm năm trước đây, đồ đệ của
hai phái đã gây thù kết oán tại huyện Tấn Dương tỉnh Sơn Tây.
Rồi từ đấy, báo thù lẫn nhau, gây nên thảm họa chém giết, không gỡ ra được nữa.
Cả
hai phái đều có những võ công tuyệt diệu để cùng khắc chế lẫn nhau.
Ngày xưa đệ tử trong hai phái gây thù kết oán cùng nhau, chỉ vì tranh
luận võ công mà gây ra.
Trước sau mấy chục lần đại chiến, chém giết
thê thảm, nhưng rồi kết cục chẳng phái nào thắng phái nào, và cả hai bên
đều bị tổn thương nặng nề.
Hải Phong Tử, người mà Ngọc Yến vừa nhắc
tới, là một nhân tài kiệt xuất trong phái Bồng Lai. Sau khi tham khảo,
nghiên cứu kỹ càng những sở trưòng sở đoản và ưu khuyết điểm về võ công
hai phái, ông nhận thấy võ công của ông bấy giờ có thể hơn phái Thanh
Thành, nhưng ông vẫn lo sau khi ông qua đời rồi, biết đâu trong phái
Thanh Thành lại chẳng sản xuất ra những bậc thông minh tài trí, mà tiến
vượt hơn phái mình. Vì muốn tìm cách mất công một lần mà yên ổn lâu dài,
nên ông phái một tên đồ đệ xuất sắc nhất, trà trộn vào hàng ngũ phái
Thanh Thành để học trộm võ công, mong sau này gã sẽ trở thành kẻ biết
người biết mình, trăm trận đánh trăm trận thắng.
Nhưng tên đồ đệ đó
chưa học được thành tài đã bị bại lộ hành tông và bị phái Thanh Thành
đem ra xử tử tức khắc. Do việc đó mà hai phái lại khơi thêm hố cừu thù,
và càng tăng thêm sự giới bị phòng ngừa đối phương sai người tới học
trộm võ công của bản phái.
Trong thời gian mấy chục năm từ đó, phái
Thanh Thành quy định: Không thu nhận đồ đệ người Bắc phương. Những người
nào tiếng nói đá giọng Bắc phương, chẳng cứ gì là người Sơn Ðông, mà
ngay người Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Tây, hay Thiểm Tây, cũng đều không thu
nhận. Gần đây, quy luật lại còn nghiêm ngặt hơn, tức là không thu nhận
bất cứ một ai ở các nơi khác, ngoài địa hạt Tứ Xuyên.
"Thanh Phong
Ðinh" là môn ám khí độc đáo của phái Thanh Thành cũng như "Thiên Vương
Bổ Tâm Châm" là võ công đặc biệt của phái Bồng Lai. ám khí của Chử Bảo
Côn phát xuất lúc nãy chính là "Thanh Phong Ðinh" mà Vương Ngọc Yến lại
gọi là "Thiên Vương Bổ Tâm Châm", khiến cho tất cả những nhân vật phái
Thanh Thành ở đây đều kinh sợ vô cùng. Quy luật của phái Bồng Lai cũng
nghiêm ngặt không kém phái Thanh Thành, chỉ thu nhận đồ đệ người tỉnh
Sơn Ðông, mà cùng trong tỉnh này, họ lại chỉ ưa kén chọn người Lỗ Ðông
thôi. Người Lỗ Tây và Lỗ Nam muốn được thu nhận vào làm môn hạ phái Bồng
Lai thì thiên nan vạn nan.
Khi người ta đã hóa trang cải dạng, thì người ngoài khó mà khám phá ra được.
Song
về thổ âm, trăm nghìn câu thế nào cũng bị lộ tẩy một câu. Chử Bảo Côn
là con nhà thế gia đại tộc ở Tây Xuyên, làm thế nào lại gia nhập được
vào làm môn hạ phái Bồng Lai? Ðó là một sự kỳ quặc không ai ngờ. Tư Mã
Lâm tuy muốn dò xét xem Chử Bảo Côn chính là đồ đệ của ai, chẳng qua là
do bản tính hiếu kỳ, chứ chẳng có ác ý gì. Người kinh hoảng nhất trong
bọn lại chính là Chử Bảo Côn.
Nguyên sư phụ của Chử Bảo Côn là Ðô
Linh Tử đạo nhân. Thời kỳ đạo nhân hãy còn nhỏ tuổi bị phái Thanh Thành
chơi cho một vố đau, nên cố ý mưu toan báo phục. Về sau ông nghĩ ra một
kế, sai người giả dạng làm kẻ cướp Giang Dương,lẻn vào nhà họ Chử ở Quán
Huyện, bắt trói gia chủ rồi còn toan cưỡng hiếp cả hai cô con gái. Ðô
Linh Tử đợi sẵn bên ngoài, tới lúc nguy cấp dường như ngàn cân treo sợi
tóc, Ðô Linh Tử mới nhảy vào đánh đuổi hết bọn cướp giả mạo. Nhà họ Chử
xiết bao cảm kích coi Ðô Linh như bậc thần thánh. Ðô Linh Tử liền thừa
cơ hội khuyên nhủ:
-Nếu không có võ nghệ cao cường, thì dù có gia tài
trăm vạn cũng khó lòng tránh khỏi quân gian khi có biến. Tôi xem những
quân cướp này, chính là người trong phái Thanh Thành ở địa phương này.
Bữa nay chúng bị thất bại, lần sau tất
chúng sẽ đem toàn lực tới cướp
nữa. Họ Chử là một nhà rất được trọng vọng ở địa phương này. trong nhà
có mời võ sư tới bảo vệ, nay được mục kích các võ sư vừa bị quân cướp
đánh cho mấy quyền cước đã té quay ra, lại nghe nói quân cướp còn tới
nữa, hồn vía lên mây, hết sức năn nỉ Ðô Linh Tử lưu lại. Ðô Linh Tử cũng
từ chối lấy lệ, đợi cho gia chủ van vỉ mãi mới giả bộ miễn cưỡng nhận
lời. Ðô Linh Tử xếp đặt sẵn kế hoạch từ trước, ông đã nhằm Chử Bảo Côn,
con gia chủ, là một đứa nhỏ có căn cốt rất tốt, có khả nănghọc võ nghệ.
Thế là ông cứ tiến hành kế hoạchbước
dần từng bước một. Không bao lâu, ông chính thức nhận Chử Bảo Côn làm đồ đệ.
Ngoại
trừ việc dụng ý thâm hiểm để gây thêm oán thù với phái Thanh Thành,Ðô
Linh Tử cũng không có bản tính gì là thâm độc, về võ công lại rất cao
cường.
Ông dặn nhà họ Chử phải đề phòng rất nghiêm mật, và ngấm ngầm
dạy Chử Bảo Côn luyện tập võ nghệ. Sau mười năm, Chử Bảo Côn đã trở
thành một nhân vật thứ nhất thứ nhì trong phái Bồng Lai. Ðô Linh Tử là
người cực kỳ nhẫn nại. Từ ngày lưu trú ở Chử Gia Trang, ông liền giả làm
người câm. Thủy chung không nói với ai lấy nửa lời. Trong lúc dạy võ,
ông chỉ toàn viết chữ, tuyệt nhiên không nói một câu thổ âm Sơn Ðông nào
cả. Vì thế mà ông cùng Chử Bảo Côn, hai thày trò gần gũi suốt mười mấy
năm trời, Chử không hề biết là thày giả câm. Mãi tới lúc Chử Bảo Côn đã
thành tài, Ðô Linh Tử mới viết rõ nguyên ủy những tiền nhân hậu quả giữa
phái Thanh Thành và phái Bồng Lai, dĩ nhiên việc sai người giả dạng làm
quân cướp thì ông giấu kín không nhắc tới, để tùy đồ đệ tự quyết.
Suốt
thời gian mười năm, ân trạch của Ðô Linh Tử đối với Chử Bảo Côn đã quá
thâm hậu, ông đem hết võ công của phái Bồng Lai dốc ra truyền thụ cho đồ
đệ.
Chử Bảo Côn vô cùng cảm kích, nên sau khi nghe rõ ý chí của sư
phụ, liền xin gia nhập vào làm môn hạ Tư Mã Vệ ở phái Thanh Thành. Tư Mã
Vệ là phụ thân Tư Mã Lâm. Lúc đó, Chử Bảo Côn đã khá lớn, hơn nữa y lại
tự giới thiệu là đã học qua mấy đường quyền cước do võ sư ở trong nhà
dạy, nên Tư Mã Vệ có ý không muốn thu nhận. Song vì họ Chử là một nhà
đại tài chủ ở Xuyên Tây. Nhiều tiền lại sẵn thế lực. Thanh Thành tuy là
một phái võ, nhưng cơ sở chính lại ở Xuyên Tây. Vì không muốn mất hòa
khí với một hào môn địa phương, hơn nữa được một đồ đệ người họ Chử càng
tăng thêm thanh thế cho bản phái, nên Tư Mã Vệ thu nhận Chử Bảo Côn làm
đồ đệ. Sau khi truyền dạy võ nghệ cho Chử Bảo Côn được ít lâu. Tư Mã Vệ
cũng nhận thấy võ công của y không phải là tay tầm thường, ông có gặng
hỏi mấy lần. Chử Bảo Côn cũng chỉ tìm lời chống chế cho xuôi chuyện.

Mã Vệ vẫn nể mặt phụ thân y, nên không bức bách quá, ông cũng cho là
hạng công tử nhà giàu mà học được võ công như thế cũng không phải là
chuyện dễ. Chử Bảo Côn trước khi xin gia nhập làm môn hạ phái Thanh
Thành y đã từng được Ðô Linh Tử dặn dò cặn kẽ, cần phải gia tâm nghiên
cứu rèn luyện các môn võ của phái Thanh Thành. Mỗi năm gặp những ngày
tuần tiết, Chử Bảo Côn mang lễ vật rất hậu kính thầy và tặng sư huynh
cùng bạn hữu. Sư phụ cần dùng gì, y đều chiều theo ý muốn tức khắc. Nhờ ở
gia tư hào phú, nên y làm việc gì cũng được chu đáo. Tư Mã Vệ yêu quí y
vô cùng, đem hết võ công truyền thụ cho không giấu giếm tý gì, vì thế
mà Chử Bảo Côn không kém gì Tư Mã Lâm, đều học được hết những môn sở
trường của Tư Mã Vệ.
Trước đây ba bốn năm, Ðô Linh Tử sai y xuất du
tới núi Bồng Lai, biểu diễn lại những môn võ của phái Thanh Thành để
biết hết những điều bí điệu trong võ công bên địch, rồi sau mới quyết
định đánh một trận để phá tan phái Thanh Thành. Song Chử Bảo Côn mấy năm
làm môn hạ phái Thanh Thành, cảm thấy Tư Mã Vệ rất hậu tình đối với y,
trong những lúc truyền thụ võ nghệ, ông coi y như con đẻ. Nên bây giờ y
nghĩ việc mình ra tay tiêu diệt cả phái Thanh Thành, giết toàn gia Tư Mã
Vệ, trong lòng rất là bất nhẫn. Y mới ngấm ngầm quyết định, đợi sau khi
Tư Mã Vệ qua đời rồi, y mới ra tay. Còn Tư Mã Lâm sư huynh đối với y
cũng bình thường,dù giết đi cũng chẳng có gì đáng kể. Vì thế nên y trùng
trình thêm mấy năm nữa.
Ðô Linh Tử đã mấy lần thôi thúc. Chử Bảo Côn đều tìm cách thoái thác. Y nói:
-Xét
về 18 thế đánh ở chữ "Thanh" hình như chưa đủ, mà 36 thế phá ở chữ
"Thành" tựa hồ còn có bí quyết riêng nữa. Ðô Linh Tử đã tốn bao nhiêu
tâm huyết,khi nào lại không theo đuổi dến cùng.
Mùa thu năm ngoái,
thốt nhiên xảy ra một việc không ai tưởng tượng được. Tư Mã Vệ bị tử
thương tại miền phụ cận thành Bạch Ðế, do một người bí mật nào đó dùng
thế "Phá Nguyệt Chùy", một trong 36 thế phá thuộc chữ "Thành" đánh thủng
màng tai, vào sâu tới óc. Thế võ này tuy mang tên chữ "chùy" (cái dùi)
nhưng kỳ thực không phải là dùng dùi sắt, mà chỉ là chụm 5 đầu ngón tay
lại thành hình cái dùi nhọn phóng tới, rồi dùng nội lực hùng hậu đâm
thủng màng tai đối phương.
Người ta sở dĩ đứng được ngay ngắn vững
vàng là nhờ ở cái màng hình bán nguyệt trong người, nó có công dụng làm
cho thân thể được thăng bằng. Nếu bị trúng gió, chảy nước mắt nước mũi
ra nhiều, hơi thở ở mũi khích động quá mạnh,
đụng tới màng bán
nguyệt, tức thời toàn thân bị choáng váng. Sức nội kình do "Phá Nguyệt
Chùy" phát ra cốt làm cho rung động mạnh để phá thủng màng bán nguyệt.
Về thủ pháp đã độc ác mà lúc sử dụng phải cực kỳ linh hoạt, xảo trá, đột
nhiên đánh ra, thì dẫu đối phương võ công có cao cường hơn, nhưng cũng
khó mà kháng cự kịp.
Ðược tin Tư Mã Vệ tử thương. Tư Mã Lâm và Chử
Bảo Côn từ Thành Ðô đi suốt ngày đêm tới nơi phụ cận thành Bạch Ðế. Sau
khi điều tra thương tích, họ biết rằng Tư Mã Vệ bị trúng "Phá Nguyệt
Chùy", một thế võ tuyệt diệu của bản phái. Hai người vừa kinh ngạc vừa
đau xót. Sau một hồi xuy luận, đều cho rằng: Người trong bản phái biết
sử dụng "Phá Nguyệt Chùy" ngoài Tư Mã Vệ, chỉ có Tư Mã Lâm,Chử Bảo Côn,
và hai vị cao thủ kỳ cựu nữa thôị Nhưng trong lúc biến cố xảy ra thì cả
bốn người cùng ở với nhau một chỗ tại Thành Ðô, nên họ không có hiềm
nghi gì nhau cả. Thế thì ai là hung thủ giết Tư Mã Vệ? Chắc chỉ có Cô Tô
Mộ Dung hay dùng lối "Gậy Ông Ðập Lưng Ông". Ngoài ra không còn ai có
đủ tài làm được thế.
Thế là phái Thanh Thành chiêu tập tất cả những
nhân vật cao thủ kéo tới Cô Tô tìm Mộ Dung để thanh toán món nợ máu.
Trước khi đi, Chử Bảo Côn đã hỏi ngầm Ðô Linh Tử về vụ án này có phải
người phái Bồng Lai đã dúng tay vào không?
Ðô Linh Tử dùng bút viết:
-Võ
công Tư Mã Vệ với ta cũng ngang nhau thôi. Nếu một mình ta mà dùng cách
ám toán, thì chỉ dùng môn "Thiên Vương Bổ Tâm Châm" cũng đủ giết chết
đối phương. Còn nếu nhiều người vây đánh, thì phải dùng "Thiết Quài
Trâu" của bản phái.
Chử Bảo Côn cho là rất đúng, y đã biết rõ bản
lãnh của hai sư phụ không ai hạ nổi ai. Nếu nói là dùng "Phá Nguyệt
Chùy" để giết Tư Mã Vệ, thì đừng nói là Ðô Linh Tử không biết dùng thế
đó, mà dù có biết chăng nữa, cũng không thể
thắng được Tư Mã Vệ. Thế là Chử Bảo Côn không còn hoài nghi gì nữa, theo luôn Tư Mã Lâm đến Giang Nam để báo thù.
Ðô
Linh Tử cũng không ngăn cản, chỉ ân cần dặn y việc gì cũng nên cẩn
thận,cần sao cho thêm lịch duyệt, rộng kiến văn, đừng để đến nỗi phải
chết uổng mạng dưới tay phái Thanh Thành. Khi đến Cô Tô dò hỏi tin tức,
họ tới "Thính Hương Tinh Xá" một cách rất dễ dàng. Không ngờ bọn Tần Gia
Trại ở Vân Châu đã đến đó trước.
Kỷ luật của phái Thanh Thành rất
nghiêm ngặt. Nếu không có hiệu lệnh của chưởng môn nhân, thì bất cứ ai
cũng không được nói bừa làm ẩu, nên phái này thấy bọn cướp Tần Gia Trại
lộn xộn như thế, họ rất lấy làm bất mãn.
Phái Thanh Thành dốc chí
vào việc báo cừu, nên lúc ở "Thính Hương Tinh Xá", cây cỏ cũng không hề
động đến, ho tự mang lương khô đi để dùng. Cũng vì thế mà người phái
Thanh Thành đi đâu cũng không bị mất thể diện. Không ngờ Vương Ngọc Yến
và bọn A Châu đột nhiên về tới nơi, khiến cho sự tình biến diễn một cách
kỳ dị ngoài tưởng tượng của mọi ngườị Chử Bảo Côn theo đúng thủ pháp
của phái Thanh Thành để phóng "Thanh Phong Ðinh". Ngay hồi còn sinh
tiền, Tư Mã Vệ cũng không mảy may nghi ngờ. Thế mà tự miệng Vương Ngọc
Yến nói toạc ra, khiến cho Chử Bảo Côn trong lúc sửng sốt không kịp
phòng ngừa, tuy y muốn giết nàng để bịt miệng,nhưng vì lòng bất nhẫn,
không nỡ hạ thủ, thành ra bị lỡ. Chử Bảo Côn nghĩ thầm:
-Năm chữ
"Thiên Vương Bổ Tâm Châm" đã lọt vào tai bọn Tư Mã Lâm rồi, dù ta có
giết Ngọc Yến cũng vô ích, lại càng tỏ ra là có tật giật mình. Y hồi
tưởng lại câu nàng biểu, cái việc ta đang mưu đồ đây thì từ 80 năm về
trước, chương môn nhân thứ bảy của bổn phái là Hải Phong Tử đã từng thử
làm rồị Tài năng và võ công người còn goỉi hơn ta. Sau nàng lại biểu:
"Ðừng hành động nữa, cái đó vô dụng". Phải chăng Tư Mã sư phụ đã không
đem những môn tuyệt nghệ của phái Thanh Thành ra dạy ta một cách đến nơi
đến chốn? Phải chăng lúc ta xin nhập vào hàng ngũ phái Thanh Thành, Tư
Mã sư phụ đã khám phá được điều bí ẩn của ta,mà không muốn nói ra, và ta
vẫn ngốc nghếch chẳng biết gì? Những người phái Thanh Thành biết rõ ta
là gian tế, sẽ đối phó với ta ra sao? Từ đây thanh danh ta ở trong võ
lâm chắc là mất hết. Chử Bảo Côn càng nghĩ đầu óc càng rối loạn. Y quay
đầu lại thấy Tư Mã Lâm và mọi người hai mắt đều trừng trừng nhìn mình và
hai tay đều thủ vào trong tay áo.
Chương môn nhân phái Thanh Thành là Tư Mã Lâm lạnh lùng nói:
-Chử gia, nguyên trước ngươi là người trong phái Bồng Lai ư?
Chử Bảo Côn tỏ vẻ lúng túng, thừa nhận cũng không được mà phủ nhận cũng không xong. Tư Mã Lâm lại nói tiếp:
-Mi
chui vào tận tổ phái Thanh Thàn, để học môn võ tuyệt chiêu "Phá Nguyệt
Chùy". Sau khi học được rồi, mi liền lấy tiên phụ ta để thí nghiệm, mi
là đứa lòng lang dạ thú như thế, thực là ác độc!
Tư Mã Lâm nói dứt lời, hai tay duỗi thẳng ra,mỗi tay đều cầm một chiếc binh khí.

Mã Lâm cho là bao nhiêu tuyệt kỹ của bản phái bị Chử Bảo Côn học trộm
hết, rồi y trở về truyền thụ lại cho những tay cao thủ phái Bồng Lai.
Lúc phụ thân mình bị giết, tuy đúng là Chử Bảo Côn có mặt ở Thành Ðô,
nhưng cũng là âm mưu của y. Người phái Bồng Lai đã học được thủ pháp,
đương nhiên là họ có thể gia hại Tư Mã Vệ bất cứ lúc nào. Chử Bảo Côn
xám mặt lại. Y tự nghĩ sư phụ Ðô Linh Tử sở dĩ cho y trà trộn vào phái
Thanh Thành quả là có dụng ý như thế thực. Song mãi tới ngày nay, y chưa
hề tiết lộ với ai một chút võ công nào của phái Thanh Thành.
Nay sự
tình đã xảy ra thế này, dầu rằng trăm miệng khôn phân lẽ nào? Xem chừng
cuộc ác chiến sắp xảy ra đến nơi rồi. Ðối phương người nhiều thế mạnh,
võ công của Tư Mã Lâm và hai vị cao thủ khác nữa đều ngang sức với mình
cả, hôm nay khó lòng tránh khỏi cuộc đổ máu.
Chử Bảo Côn nghiến hai hàm răng lại tử nhủ:
-Mình
tuy chưa làm việc đó, nhưng lòng phản thày đã có từ lâu, dù bị phái
Thanh Thành giết cũng là đáng tội. Vì nghĩ trong lòng như vậy nên Chử
Bảo Côn chỉ trả lời:
-Tư Mã sư phụ nhất quyết không phải là tôi sát hại...
Tư Mã Lâm quát:
-Cố
nhiên là không phải tự tay mi giết, nhưng mà mi truyền võ công cho kẻ
khác giết. Thế thì phỏng khác gì chính tay mi hạ sát? Tư Mã Lâm lại quay
sang nói với hai ông già:
-Khương sư thúc và Mạnh sư thúc! Ðối với
tên bạn đồ này bất tất phải theo quy luật võ lâm. Chúng ta phải hợp lực
lại để giết y. Hai ông già gật đầu và cũng duỗi thẳng hai tay, rút binh
khí từ trong tay áo ra, người nào cũng tay trái cầm chùy, tay phải cầm
búa, đứng vây hai bên.
Chử Bảo Côn lùi lại mấy bước đứng tựa lưng vào chiếc cột lớn trong sảnh, để tránh khỏi cái thế trước sau đều bị uy hiếp.
Tư Mã Lâm hô lớn:
-Ta giết đứa bạn đồ để báo thù cho cha!
Nói vừa dứt tiếng, Tư Mã Lâm xông thẳng lại nhằm đỉnh đầu Chử Bảo Côn đánh luôn một chùy.
Chử Bảo Côn nghiêng người tránh, và dùng tay trái đánh trả lại một trùy.
Ông già họ Khương quát:
-Ðứa bạn đồ kia? Mi còn mặt mũi nào mà sử dụng võ công của bản phái?
Ông
vừa quát vừa dùng tay trái đâm chùy vào cổ họng đối phương. Tay phải
cầm cây búa nhỏ dùng thế "Phượng Ðiểm Ðầu" gõ luôn ba búa vào đầu đối
phương. Bọn người ở Tần Gia Trại thấy họ sử dụng tiểu chùy một cách rất
thuần
thục, và phép đánh cũng rất kỳ lạ. Chúng đều động tính hiếu kỳ nhìn xem không chớp mắt.
Diêu Bá Dương cùng những tay cao thủ đều gật gù khen thầm:
-Phái Thanh Thành tiếng tăm lừng lẫy Xuyên Tây, thực xứng đáng lắm.
Bị
ba người vây đánh, Chử Bảo Côn đỡ bên trái thì hở bên phải. Y cố gượng
cầm cự, trong khoảng khắc đã thấy rõ cơ nguy. Tư Mã Lâm căm phẫn, nóng
lòng muốn báo thù cho cha, thế đánh dồn dập rất mãnh liệt.
Chử Bảo Côn không tài nào chống lại được. Hai ông già họ Khương và họ Mạnh dùng toàn những thế "Ôn",
"Ngân",
"¢m", "Ðộc", tức là 4 bí quyết lớn trong võ công phái Thanh Thành. Dùi
đâm búa đánh. mỗi lần ra tay đều nhằm vào những chỗ yếu hại của đối
phương.
Những chiêu số và binh khí của ba người sử dụng, Chử Bảo Côn đều thuộc lòng cả.
Vừa ra đòn này, y có thể suy biết ba bốn đòn kế tiếp và biến hóa ra sao rồi, nhờ thế nên một người chống ba mà vẫn cầm cự được.
Chống đỡ được hơn mười hiệp, Chử Bảo Côn đột nhiên cảm thấy trong lòng bứt rứt và thầm nghĩ:
-Tư
Mã sư phụ quả thực không bạc đãi mình. Cứ xem những chiêu thức mà hai
sư thúc sử dụng đây, không có một thế nào là mình không hiểu rõ. Trong
lúc luyện tập hay biểu diễn, họ còn có thể cố ý giấu giếm không lộ những
thế võ kỳ diệu hiểm yếu ra cho mọi người biết, chứ lúc này là cuộc
tranh đấu liều mạng, tất nhiên ba người phải dốc toàn lực ra. Suy đấy đủ
biết võ công của phái Thanh Thành đúng là sư phụ đã dạy hết cho mình,
không dấu một thế nào nữa. Nghĩ thế nên Chử Bảo Côn hết sức cảm kích
nghĩa sư đệ, y không cầm lòng được, lại nói lớn:
-Tư Mã sư phụ, quyết không phải là tôi sát hại đâu...
Chử
Bảo Côn vừa phân tâm, thì Tư Mã Lâm đã nhảy phắt tới chỉ còn cách có
hơn một thước. Phái Thanh Thành hay dùng những binh khí vừa nhỏ vừa
ngắn, lợi hại nhất những lúc đánh giáp lá cà. Tư Mã Lâm nhảy sát lại gần
như thế, nếu đối thủ là người khác phái, thì hẳn đã nắm chắc phần thắng
tới tám phần mười rồi.
Khốn nỗi võ công của Chử Bảo Côn cùng với hắn
hai bên giống nhau, nên hạ nhau rất khó. Dưới ánh đèn mọi người thấy
hoa ca mắt, Tư Mã Lâm và Chử Bảo Côn thân hình nhanh như điện chớp, hai
tay vung múa tít thò lò. Trong chớp mắt hai bên đã giáp chiến tới bảy
tám hiệp, dùi thép đâm qua, đâm lại, chùy nhỏ thì gõ ngang đánh dọc. Hai
đối thủ hung hăng quyết liệt như phát điên. Cả hai người cùng luyện tập
đã quá tinh thục, nên hễ bên này đánh ra một thế là tự nhiên bên kia đã
đỡ ngay được và trả đòn liền. Trong khoảng khắc hai bên đã đấu tới mấy
chục hiệp, người ngoài chỉ nghe thấy những tiếng binh khí va chạm loảng
xoảng, còn những thế tiến công thủ ngự thì không ai trông rõ.
Hai ông
già thấy Tư Mã Lâm đánh mãi không hạ được đối phương, đột nhiên huýt
lên một tiếng, rồi hai người đều lăn xả xuống đất, tấn công vào hạ bàn
Chử Bảo Côn.
Chử Bảo Côn đối với thế "Lôi Công Trước Ðịa Oanh" cũng
đã thuộc làu. Song hai tay đang bận đối phó với binh khí của Tư Mã Lâm,
không còn rảnh chút nào để chống với hai ông già, chỉ còn cách nhảy
tránh mà thôi.
Ông già họ Khương đánh một chùy từ trái sang phải, ông già họ Mạnh lại đánh một chùy từ phải sang trái.
Chử Bảo Côn giơ chân đá phốc vào cằm ông già họ Mạnh, ông già họ Mạnh cả giận quát mắng: -Quân chó má này! Muốn liều mạng chăng?
Ông
vừa mắng vừa lùi tránh tránh sang một bên. Ông già họ Khương lại thừa
thế tiến lên, đánh quét ngang một chùy. Tư Mã Lâm cũng giơ chùy nện
thẳng vào mi mắt Chử Bảo Côn.
Trong lúc cấp bách, Chử Bảo Côn chỉ kịp
giơ chùy lên gạt chùy của Tư Mã Lâm,chân bên trái đành liều để cho ông
già họ Khương đánh trúng. Chiếc chùy tuy nhỏ mà sức đánh rất mạnh, Chử
Bảo Côn đau điếng người, buốt đến tận xương, y không hiểu là chân trái
còn hay đã gãy rồi. Khương lão đắc thế đâu có chịu nhường, ông liền đánh
tiếp luôn trùy thứ hai.
Chử Bảo Côn đưa chùy ra đỡ, hai chùy chạm
nhau tóe lửa. Ðột nhiên Chử Bảo Côn thấy đau nhói lên, y lại bị Khương
lão đâm cho 1 dùi vào chân trái nữa. Nhát dùi này chính ra thì Chử Bảo
Côn vẫn có thể tránh được, song y biết rõ, nếu tránh khỏi mũi dùi thì
hai ông già sẽ đổi thế "Lôi Công Trước Ðịa Oanh" thành thế "Ðịa Mẫu Lôi
Võng" thì không còn cách nào chống đỡ được nữa. Vả y tưởng rằng chân
trái đã bị gãy rồi thì liều chịu thêm một dùi nữa cũng cam. Chiếc dùi
đâm vào sâu hai tấc, máu chảy vọt ra, đương lúc quay lộn tranh đấu, máu
phun vào bốn bức tường trắng thành từng vệt loang lổ.
Vương Ngọc Yến
thấy A Châu chau đôi mày liễu, và bĩu môi ra, biết rằng nàng có ý chán
ghét nhóm người đánh nhau lộn ẩu, làm nhơ bẩn căn phòng thanh nhã tinh
khiết của nàng.
Ngọc Yến nhếch mép cười nói:
-Thôi, các ông đừng đánh lộn nữa, có gì thì nói với nhau. Việc gì phải dở trò man rợ vô lý như thế?

Mã Lâm và hai ông già có ý đánh chết kẻ thù ngay tại trận. Còn Chử Bảo
Côn tuy vẫn muốn ngừng tay, nhưng đối phương không chịu thôi biết làm
sao được.
Vương Ngọc Yến thấy bốn người vẫn ác chiến, không lý gì đến
lời nói của nàng,mà chủ ý không chịu ngừng tay là bọn ba người phe Tư
Mã Lâm nên nàng lại nói tiếp:
-Tại tôi buột miệng nói ra một câu
"Thiên Vương Bổ Tâm Châm" để tiết lộ việc cơ mật trong môn hộ của Chử
tướng công. Tư Mã chưởng môn! Các ông hãy ngừng tay mau!
Tư Mã Lâm quát:
-Thù cha chẳng đội trời chung, sao lại không báo? Cô nói lôi thôi gì vậy?
Vương Ngọc Yến nói tiếp:
-Ông không chịu ngừng tay, tôi sẽ buộc lòng phải giúp Chử tướng công.
Tư Mã Lâm hơi chột dạ, nghĩ thầm:
-Thiếu
nữ xinh đẹp này có luồng nhãn quang rất lợi hại, nếu võ công nàng lại
cao cường mà giúp cho đối phương, kể ra cũng có điểm bất lợi cho mình.
Song thoáng cái lại nghĩ khác:
-Những nhân vật cao thủ phái Thanh
Thành hiện ở cả đây, quá lắm bên ta kéo ùa cả ra mà đánh, thì còn sợ gì
cô gái ngây thơ non nớt đó? Vì nghĩ thế nên Tư Mã Lâm tay đánh lại gia
thêm kình lực không thèm lý gì đến Ngọc Yến nữa.
Ngọc Yến quay sang bảo Chử Bảo Côn:
-Chử tướng công hãy sử dụng thế "Lý Tồn Hiếu Ðả Hổ" rồi sử dụng tiếp thế "Trương Quả Lão Ðảo Kỵ Lư".
Chử Bảo Côn ngẩn người ra, nghĩ thầm:
-Thế
đánh trước là võ công của phái Thanh Thành, thế đánh thứ hai lại là võ
công của phái Bồng Lai, hai đằng chiêu số khác nhau làm sao lại có thể
sử dụng liên tiếp với nhau được? Có điều đang lúc tình thế cấp bách, làm
gì còn kịp suy nghĩ kỹ càng, nên y cũng theo lời Ngọc Yến sử dụng ngay
thế "Lý Tồn Hiếu Ðả Hổ" nghe "xoảng xoảng" hai tiếng, hai chiếc tiểu
chủy của Tư Mã Lâm và ông già họ Khương vừa đánh tới đã bị bật ra. Tiếp
theo Chử Bảo Côn xiêu vẹo người đi, lùi lại ba bước, chính lại vừa tầm
tránh khỏi đòn phục kích của Mạnh lão. Ðòn phục kích này rất là âm độc,
hiểm ác, dùng cả dùi lẫn búa đánh luôn 3 đường liên hoàn.
Những tay
cao thủ trong bọn Diêu Bá Dương ở Tần Gia Trại đứng bên xem đều toát mồ
hôi lo thay cho Chử Bảo Côn. Họ đều cho rằng Chử Bảo Côn không tài nào
tránh khỏi thế đánh liên hoàn đó được.
Không ngờ Chử Bảo Côn vừa gạt
được hai chùy của Tư Mã Lâm và Khương lão,rồi tiếp đó lùi lại ba bước để
tránh khỏi thế phục kích liên hoàn của Mạnh lão.
Những bước lùi đó
Chử Bảo Côn đi loạng choạng, chẳng ra lối gì, tựa như anh chàng say
rượu. ấy thế mà chính là nhờ ở những bước loạng choạng đó y đã tránh
khỏi những đòn ác liệt của đối phương tựa hồ hai bên trước khi giao đấu
đã cùng nhau luyện tập rất thuần thục, rồi đem ra biểu diễn trên sân
khấu vậy. Những người trong Tần Gia Trại đứng xem một cách say sưa khoái
trá. Mỗi lần thấy Chử Bảo Côn tránh khỏi một đòn họ lại vỗ tay reo, khi
Chử Bảo Côn tránh luôn khỏi ba đòn, tiếng vỗ tay reo hò lại càng rầm
rộ.
Những nhân vật phái Thanh Thành trước kia vẫn trầm lặng nhưng lúc này người nào người nấy dều nhăn nhó rất khó coi.
Ðoàn Dự gọi bảo Chử Bảo Côn:
-Hay lắm! Hay lắm! Chử huynh! Vương cô nương dặn thế nào, Chử huynh cứ làm đúng như thế, nhất định sẽ không bị thua đâu.
Chử
Bảo Côn vừa tránh khỏi ba đòn nguy hiểm, mà trong lúc lùi lại ba bước
theo thế "Trương Quả Lão Ðảo Kỵ Lư" hoàn toàn không kịp nghĩ tới hậu quả
ra sao hết. Ðầu óc mê man cho là chết cũng được, sống cũng hay.
Chử
Bảo Côn đã buông lỏng tính mạng từ lâu rồi. Y không ngờ võ công của
phái Thanh Thành và phái Bồng Lai khác nhau như nước với lửa, thế mà lại
sử dụng liên tiếp với nhau được. Trong lòng Chử Bảo Côn hết sức kinh
ngạc, kinh ngạc hơn cả những người trong Tần Gia Trại và phái Thanh
Thành.
Ngọc Yến lại hô:
-Chử tướng công hãy sử dụng thế "Hàn
Tương Tử Tuyết ủng Lam Quan" rồi tiếp đến thế "Khúc Kính Thâm U". Chử
Bảo Côn thấy lần này lại sử dụng thế võ của phái Bồng Lai trước rồi tiếp
đến thế của phái Thanh Thành. Y không kịp đắn đo gì nữa, tức thời dùng
dùi và chùy che giữ phía trước người. Vừa lúc đó hai chiếc dùi của Tư Mã
Lâm và Mạnh lão đồng thời đâm tới, thấy đối phương đã giữ kín cửa ngõ,
không còn chỗ sơ hở dể đánh vào được, nhưng họ vẫn dùng sức đánh ra coi
như một đòn bỏ đi. Hai mũi dùi đụng vào chùy của đối phương kêu "xoảng"
một tiếng, hai chiếc dùi đồng thời bị bật ra.
Chử Bảo Côn không cần
nghĩ ngợi, lún thấp người xuống, và ngoặt tay đâm xéo một mũi dùi ra
đằng sau. Khương lão đương sắp nhảy ra đánh phía sau lưng đối phương,
không ngờ mũi dùi của đối phương bất thình lình đâm ra vừa nhằm đúng
chỗ, lại đúng lúc.
Thế đánh "Khúc Kính Thâm U" tuy cũng là võ công
của phái Thanh Thành,nhưng không có chỗ thâm diệu đặc biệt. Song vận
dụng về phương vị và thời gian,quyết không thể nào trái ngược với lẽ
thường trong võ học như thế được. Có điều cũng vì mũi dùi đâm vô lý như
thế, khiến cho Khương lão không ngờ cứ nhảy xổ tới thành ra đưa người
vào mũi dùi, như người tự sát vậy. Lúc biết là nguy, thì không thể nào
tránh kịp nữa. "Phập" một cái, mũi dùi đã đâm trúng vào ngang thắt lưng.
Khương lão người bị lảo đảo không gượng được, té sấp xuống, máu tuôn ra
như suối. Hai người trong phái Thanh Thành vội chạy ra vực Khương lão
lui lại.
Tư Mã Lâm mắng:
-Chử Bảo Côn! Mi thật là quân chó má. Chính tự tay mi đâm sư thúc đây. Mi còn cãi được nữa không?
Ngọc Yến cướp lời:
-Khương tiên sinh bị thương là do tôi bảo y đâm đó. Các ông phải ngừng tay ngay!
Tư Mã Lâm giận quát:
-Mi có bản lãnh hãy bảo nó giết ngay ta đây này!
Ngọc Yến nhếch mép cười đáp:
-Cái đó phỏng có khó gì? Chử tướng công hãy sử dụng thế "Lý Thiết Quải Ngọc Ðộng Luận Ðạo".
Chử Bảo Côn nghĩ bụng:
-Trong
các môn võ công của phái Bồng Lai, chỉ có thế "Lã Thuần Dương nguyệt hạ
quá Ðộng Ðình" với thế "Hán Chung Ly Ngọc Ðộng Luận Ðạo", mà sao cô
nương này lại lôi Lý Thiết Quải vào đó, chắc là nàng nghiên cứu võ công
bản phái chỉ biết có chừng, mà buột miệng nói trệch đấy thôi. Song trước
tình thế cấp bách,Chử Bảo Côn không còn kịp hỏi lại, đành cứ đem sở học
lúc bình thời ra sử dụng thế "Lã Thuần Dương nguyệt hạ quá Ðộng Ðình".
Thế
võ này chính ra thì bước dài về đằng trước, dáng điệu nhẹ nhàng như là
phi hành trên không trung. Nhưng chân trái Chử Bảo Côn bị hai vết thương
nên lúc bước dài dáng điệu xiêu vẹo, không thể nào ngay ngắn giống Lã
Thuần Dương
được, mà đúng là Lý Thiết Quải không hơn không kém. Nhưng
trái lại chính nhờ ở chỗ xiêu vẹo đó, người hơi nghiêng về bên trái,
chiếc tiểu chùy cầm bên tay phải thay làm chiếc quạt lá bồ, lúc lướt
ngang ra, vừa nhằm đúng lúc Mạnh lão nhao đầu tới. "Ðốp" một tiếng,
chiếc chùy đã đập vào mồm Mạnh lão, làm gãy luôn mười mấy cái răng rơi
xuống đất. Ðau quá, Mạnh lão nhảy lộn bậy, quẳng binh khí xuống đất, hai
tay bịt miệng, ngồi phịch xuống đất.
Tư Mã Lâm hoảng vía, không giữ
được chủ ý, phân vân chưa biết nên tiếp tục giao đấu hay hãy tạm ngừng
tay rồi sẽ tìm cách báo thù sau?
Hai thế mà Vương Ngọc Yến vừa chỉ
điểm cho Chử Bảo Côn quả thực là xảo diệu tuyệt luân, dự tính biết rõ
những sự kiện sẽ diễn biến ra saọ Mạnh lão sau khi đánh luôn ba đường
liên hoàn nhất định sẽ nhảy tới hông bên phải Chử Bảo Côn,mà lúc đó Chử
Bảo Côn đưa ngang chiếc chùy ra nhất định là đánh trúng vào mồm Mạnh
lão. Vì Chử Bảo Côn chân trái bị thương tập tễnh, sử dụng thế "Hán Chung
Ly Ngọc Ðộng Luận Ðạo" lại biến thành thế "Lý Thiết Quải Ngọc Ðộng Luận
Ðạo", chiếc chùy đưa xéo ra, chứ nếu đánh thẳng, thì lại sai đi mấy tấc
thì không đánh trúng được. Những sự tính toán tinh vi, liệu định chuẩn
đích, thực là thần diệu tuyệt vời không thể nào tưởng tượng được. Người
thường không thể nào dự liệu biết trước được thế đánh của hai bên một
cách chuẩn đích như thế. Thế mà Vương
Ngọc Yến chỉ buột miệng nói ra,
mà tựa như có kỳ tài biết trước cả ba người sẽ phải sử dụng những thế
gì, chẳng khác gì người đã thuộc lòng cả trong bụng từ lâu rồi.
Về Đầu Trang Go down
Oz Vessalius
Tướng Quân
Tướng Quân
Oz Vessalius

Tổng số bài gửi : 95
Điểm Thưởng : 5149
Độ Tin Tưởng : 104
Join date : 05/01/2011

Thiên Long Bát Bộ - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ   Thiên Long Bát Bộ - Page 2 I_icon_minitimeThu Jan 06, 2011 5:32 pm

Hồi 34

Bao Tam Tiên Sinh Xuất Hiện
Tư Mã Lâm tuy nóng lòng báo thù cha nhưng không phải là một hạng dũng phu mán mọi, gã đắn đo: "nếu muốn giết thằng chó má Chử Bảo Côn này, trước hết ta phải ngăn ngừa con nhãi kia chỉ điểm võ công cho y". Gã đang nghĩ cách sát hại Vương Ngọc Yến, bỗng nghe nàng nói:
-Chử tướng công ông là đồ đệ phái Bồng Lai, trà trộn vào hàng ngũ phái Thanh Thành để học lén võ nghệ, đó là một điều không nên, vả lão sư Tư Mã Vệ không có ý gì hại ông cả, thế là lỗi tại ông hết. Thôi ông tạ tội cùng Tư Mã chưởng môn đi là xong.
Chử Bảo Côn lấy làm phải, huống chi nàng đối với mình còn có cái ơn cứu mạng, nàng có mách cho mấy đoàn mới thoát thân được. Bây giờ nàng bảo điều gì,mình chẳng nên trái ý. Nghĩ vậy y xá dài Tư Mã Lâm nói:
-Chưởng môn sư huynh! Tiểu đệ thật là đắc tội!
Tư Mã Lâm tránh sang một bên nói:
-Mi còn dám trơ cái mặt dầy kêu ta là chưởng môn sư huynh ư?
Vương Ngọc Yến vội kêu lên:
-Ngao Du đông Hải" mau!
Chử Bảo Côn phát run, nhún người nhảy vọt lên cao đến hơn một trượng, bỗng nghe thấy tiếng "vo vo ..." không ngớt, có đến dư mười mũi "Thanh Phong Châm" bay qua dưới chân y trong chớp mắt.
Giả tỷ Vương Ngọc Yến không nhắc nhở đúng miếng "Ngao Du đông Hải" mà chỉ bảo đề phòng ám khí không thôi, thì Chử Bảo Côn còn mất thì giờ chú ý nhìn đối phương rồi mới tránh cũng không kịp nữa.
Thế "Lý Trụ Càn Khôn" để phóng ám khí nguyên là một thế tuyệt kỹ của họ Tư Mã phái Thanh Thành chỉ truyền cho con cháu, chứ không truyền cho đồ đệ. Ngay hai lão họ Khương và họ Mạnh cũng không biết đến. Sở dĩ thế võ này Tư Mã Vệ không truyền cho Chử Bảo Côn, chẳng qua là vì tuân theo lời di huấn của tổ tiên,chứ không phải có ý dấu riêng y. Nào ngờ Tư Mã Lâm nét mặt vẫn thản nhiên, chỉ có hai tay ngấm ngầm rung động cơ quan phóng "Thanh Phong Châm" ở trong tay áo mà Ngọc Yến đã phát giác, rồi chỉ điểm thế võ duy nhất để tránh khỏi ám khí này để nhắc cho Chử Bảo Côn, tức là thế "Ngao Du đông Hải" của phái Bồng Lai.
Tư Mã Lâm phóng ám khí chắc trúng mười mươi mà lại sểnh mất chẳng khác gì gặp ma quỉ biến ảo. Gã la lên:
-Mi không phải là giống người mi là loài yêu quái.
Mạnh lão bị gãy hơn mười cái răng đau quá cũng kêu lên:
-Bắt lấy con nhãi kia! Bắt lấy con nhãi kia!
Ta đã biết phái Thanh Thành kỷ luật rất nghiêm, dù Mạnh lão đứng vào hàng tiền bối nhưng không phải là chưởng môn nhân, nên đệ tử chẳng chú ý nhìn Tư Mã Lâm để chờ phát lạc. Chưởng môn nhân có ra lệnh họ mới dám xông vào bắt
Vương Ngọc Yến.
Tư Mã Lâm lạnh lùng nói:
-Vương cô nương! Sao cô lại thuộc lầu võ công của bổn phái?
Vương Ngọc Yến đáp:
-Tôi chỉ xem sách mà biết. Phái Thanh Thành lấy chủ trương trá nguỵ, âm hiểm sở trường, còn về phần biến hoá không có gì phức tạp lắm nên cũng dễ nhớ.
Tư Mã Lâm lại hỏi:
-Cô nương xem sách gì vậy?
Ngọc Yến đáp:
-Tôi cũng không nhớ rõ là sách gì. Có hai bộ nói về võ công phái Thanh Thành.
Một bộ nói về chữ "Thanh" gồm 18 thế đánh và một bộ nói về chữ "Thành" gồm 36 thế phá. Ông là chưởng môn nhân phái Thanh Thành thì còn lạ gì sách đó?
Tư Mã Lâm lẩm bẩm: Thật là bẽ mặt! Gã nhớ lại hồi nhỏ phụ thân gã truyền dạy có bảo cho gã biết: chữ Thanh nguyên trước có 18 thế đánh, chữ Thành có 36 thế phá, nhưng rất tiếc vì khiếm khuyết mất mấy thế thành ra võ công kém sút nên phải chịu giằng co bất phân thắng bại với phái Bồng Lai. Giả tỷ có ai tìm ra được đầy đủ thì võ công bổn phái không những chỉ ăn đứt phái Bồng Lai mà còn có thể xưng hùng thiên hạ một cách dễ dàng.
Vừa nghe Vương Ngọc Yến bảo đã được xem qua hai pho sách này, Tư Mã Lâm lấy làm kinh dị hỏi:
-Pho sách đó cô nương cho tại hạ mượn về so với những điều sở học của bổn phái xem có chỗ nào khác được chăng?
Vương Ngọc Yến chưa kịp trả lời Diêu Bá Ðương đã cười khà khà nói:
-Cô nương chớ để cho gã tiểu tử đó lừa bịp. Võ công của phái Thanh Thành nhà gã còn nông cạn lắm! Chữ Thanh bất quá được 7, 8 thế đánh là nhiều, chữ Thành cũng chừng độ 17, 18 thế phá mà thôi. Gã toan lừa lấy bộ kỳ thư của cô nương để về học thêm. Cô nương nhất định đừng cho gã mượn.
Tư Mã Lâm bị Diêu Bá Ðương thọc gậy bánh xe, nét mặt xanh lè bỗng tím bầm lại hỏi Diêu Bá Ðương:
-Ta hỏi mượn sách của cô nương có liên quan gì đến việc Tần Gia trại nhà ngươi?
Diêu Bá Ðương cười hà hà đáp:
-Sao lại không! Việc này quan hệ đến Tần Gia trại ta lắm chớ. Bụng dạ Vương cô nương đây thuộc lòng biết bao nhiêu võ công kỳ diệu. Ai rước được cô nương thì người đó sẽ trở thành thiên hạ vô địch. Diêu mỗ tính rằng bất luận vàng bạc châu báu, trai thanh, gái lịch trước nay ta chỉ giơ tay ra là vớ được, còn cô nương đây là của báu ngàn năm một thuở, lẽ nào ta còn để sểnh mất? Bọn Tư Mã các ngươi có muốn mượn sách thì phải hỏi ta đây xem ta có chịu không đã. Ha ha ngươi thử đoán coi: đố biết ta có bằng lòng không nào?
Diêu Bá Ðương nói mấy câu này cực kỳ vô lý, nhưng Tư Mã Lâm cùng hai ông già họ Khương, họ Mạnh suy nghĩ lung lắm: cô bé này tuy nhỏ tuổi mà về võ học của nàng uyên thâm không biết đến đâu mà lường. Trông cái điệu bộ nàng ẻo lả như gió thổi bay, vậy mà mình muốn đánh bại nàng chắc không thể được. Nàng đã xem không biết bao nhiêu là kỳ thư về võ học lại thông suốt hết, nếu ta mời được nàng về phái Thanh Thành thì việc học cho đủ 18 thế đánh của chữ Thanh và 36 thế phá của chữ Thành có cơ thành tựu được đây. Nhưng lão chủ trại Tần gia trại lại phá đám, xem chừng hôm nay khó tránh khỏi một cuộc ác chiến sắp xảy ra.
Bỗng thấy Diêu Bá Ðương lại nói:
-Cô nương! Thật ra hôm nay chúng tôi bản tâm đến đây là tìm nhà Mộ Dung để ăn thua, nhưng xem ra dường như cô nương cũng là người trong nhà Mộ Dung mất rồi...
Vương Ngọc Yến vừa nghe đến câu "dường như cô nương cũng là người nhà Mộ Dung mất rồi" thì nửa mừng, nửa thẹn, hai má ửng hồng. Nàng chép miệng hỏi lại:
-Mộ Dung công tử là biểu huynh tôi, trại chủ tìm có việc gì? Biểu huynh tôi có điều chi không phải với trại chủ?
Diêu Bá Ðương cười khà khà đáp:
-Cô nương là biểu muội của Mộ Dung Phục thế thì hay lắm! Nguyên tổ tiên nhà Mộ Dung ổ Cô Tô có thiếu nhà họ Diêu chúng tôi một vạn lạng vàng, ngàn vạn lạng bạc, đến nay đã là mấy trăm năm. Nếu tính vốn lãi chồng chất mãi thì con số không biết đến bao nhiêu?
Vương Ngọc Yến ngạc nhiên hỏi:
-Sao lại có chuyện lạ thế được? Cữu phụ tôi vốn là một nhà hào phú, sao lại còn nợ trại chủ được?
Diêu Bá Ðương nói lấp lửng:
-Nói là thiếu nợ cũng phải mà không thiếu nợ cũng phải. Cô nương còn nhỏ nên chưa hiểu rõ. Tôi đến kiếm Mộ Dung Bác đòi nợ nhưng ông ta qua đời rồi. Cha chết thì đương nhiên tôi phải đòi con. Ai ngờ Mộ Dung Phục thấy chủ nợ đến, cậu ta chuồn đi đằng nào mất rồi. Tôi chả còn cách gì ngoài sai bắt một thứ gì đấy.
Vương Ngọc Yến nói:
-Biểu huynh tôi là người hào phóng, nếu quả có nợ trại chủ thì thế nào biểu huynh tôi cũng trả. Giả tỷ không nợ, mà trại chủ cần ít chút tiền tiêu xài, đến nói với biểu huynh tôi, quyết nhiên biểu huynh tôi cũng chả cự tuyệt đâu. Có lý nào sợ
ông đòi nợ mà lẩn tránh bao giờ?
Diêu Bá Ðương chau mày nghĩ ra một kế nói:
-Vụ này không thể một lúc mà nói rành mạch được. Bây giờ cô nương hãy tạm theo tôi về Bắc, ở chơi Tần gia trại một năm hay dăm bảy tháng, người Tần gia trại chúng tôi quyết không động đến chân lông cô nương đâu. Mụ vợ Diêu mỗ đã nổi tiếng là con hổ cái đất Hà Sóc nên đối với nữ sắc Diêu mỗ rất giữ gìn. Cô nương cứ yên chí đừng lo ngại gì. Cô nương cũng chẳng cần thu xếp hành trang gì thêm nữa,chúng ta chỉ vỗ tay một cái là đi liền. Bao giờ biểu huynh cô nương kiếm đủ tiền,đem lên thanh toán hết món nợ cũ, tự nhiên tôi phải đưa cô nương về Cô tô để vẹn mối lương duyên cùng biểu huynh cô. Ngoài ra Tần trại gia còn đưa hậu lễ để Diêu mỗ đi uống mừng hai họ.
Nói tới đây lão mở miệng cười oang oang. Lão ăn nói thô lỗ như vậy một hồi nhưng Vương Ngọc Yến nghe đến đoạn chót lại càng lọt tai. Từ nhỏ nàng đã hâm mộ biểu huynh nàng, rồi gần đây nụ tình chớm nở trong lòng, nàng càng ôm nặng mối tương tư. Không hiểu Mộ Dung công tử không biết hay là giả vờ không biết tâm sự nàng, hoặc vì chàng bận nhiều việc quá mà không nghĩ tới nàng. Chàng đối với biểu muội chẳng khác gì cô em ruột không hơn không kém. Trừ việc bàn luận võ, không bao giờ đả động đến nửa lời về tình trai gái. Mới đây lại xẩy ra mối hiềm khích giữa hai nhà. Mẫu thân nàng là Vương phu nhân cấm không cho người nhà Mộ Dung bén mảng đến Mạn Ðà Sơn Trang, Vương Ngọc Yến lại càng đau khổ vô cùng, ngổn ngang trăm mối bên lòng. Trước nay nàng chả được nghe ai đề cập đến việc hôn nhân giữa nàng và biểu huynh nàng, nhất là mẫu thân nàng lại càng quyết liệt không ưng. Bọn nha hoàn tuy đã biết rõ tâm sự nàng nhưng sợ oai phu nhân, còn ai dám hé răng hé lợi?
Mấy câu đó chẳng qua Diêu Bá Ðương vui miệng nói chơi, nhưng đối với Vương Ngọc Yến là một khúc nhạc lòng êm ái. Nàng sinh ra có cảm tình với Diêu Bá Ðương. Thực ra Diêu Bá Ðương cũng chẳng hay ho gì, hành động lại rất lỗ mãng,dè đâu vì mấy câu nói đùa mà gây được cảm tình với Vương Ngọc Yến do đó lão mấy lần thoát khỏi cái hoạ sát thân. Ðó là việc sau tạm gác.
Vương Ngọc Yến hớn hở mỉm cười nói:
-Ông này chỉ nói ngang thôi. Tôi đến Tần gia trại làm chi? Nếu cữu phụ tôi có thiếu nợ vì lâu ngày không biết thì tìm chứng cớ rõ ràng biểu huynh tôi sẽ trả ông chứ sao?
Bản ý Diêu Bá Ðương chỉ muốn cướp Vương Ngọc Yến đem đi ép nàng thổ lộ hết võ công. Còn câu chuyện nợ vàng nợ bạc là lão bịa chuyện nói đùa, nhưng nàng lại tin là thật. Lão thấy nàng quá ngây thơ liền nói:
-Cô nương đi với tôi nhé, Tần gia trại đẹp lắm. Trong trại có đủ hươu, nai, hổ,báo, chim to, thú dữ không thiếu thứ gì, xem cả năm cũng không chán mắt. Biểu huynh cô được tin lập tức sẽ tìm đến nơi hội diện. Thế rồi có tiền trả hay không
cũng được, tôi vẫn để cô nương cùng chàng về Cô tô. Cô nương tính thế nào?
Mấy câu đó làm cho nàng rung động.
Tư Mã Lâm là ngươi thâm hiểu nhân tình thế cố, thấy nàng mắt phượng long lanh, mặt mày hớn hở gã nghĩ bụng: "Nếu để nàng ngỏ lời ưng thuận đi Tần gia trại với lão rồi mình mới can ngăn sau thì không hợp lý. Ta phải chặn trước đi là
hơn". Nghĩ vậy, không đợi cho Vương Ngọc Yến trả lời gã nói ngay:
-Vân Châu ở tận ngoài ải bắc là đất khỉ ho cò gáy, rét lạnh thấu xương, Vương cô nương là một vị khuynh quốc giai nhân, chịu đựng thế nào được khổ sở? Sao bằng thành đô là nơi sản xuất gấm vóc đẹp nhất thiên hạ, hoa cỏ cũng không khác gì miệt Giang Nam. Một nhân tài như Vương cô nương đến thành đô mua gấm vóc may mặc thì người càng nổi bật lên. Mộ Dung công tử cũng là bật tài mạo song toàn dĩ nhiên ưa người đẹp mặc đồ gấm vóc.
Diêu Bá Ðương quát lên:
-Thối lắm! Cô tô đây thiếu gì gấm đoạn, lượt là? Mi không mở con mắt chó má ra mà xem ba cô này mặc đồ gì đây?
Tư Mã Lâm lạnh lùng nói:
-Thối thật! Quả là thối thật!
Diêu Bá Ðương cả giận hỏi:
-Có phải mi nói ta đó không?
Tư Mã Lâm đáp:
-Không dám ta bảo con chó thối lắm!
"Soạt" một tiếng Diêu Bá Ðương rút đao ở sau lưng ra quát hỏi:
-Tư Mã Lâm! Tần gia trại với phái Thanh Thành nhà mi, đại khái một bên tám lạng, một đằng nửa cân, nếu Tần gia trại ta hợp lực với phái Bồng Lai liệu có diệt nổi phái Thanh Thành không?
Tư Mã Lâm biến sắc, nghĩ bụng: "Lời lão nói quả đúng sự thực. Từ ngày phụ thân ta qua đời rồi, lực lượng phái Thanh Thành đã kém trước, lại bị thằng chó má Chử Bảo Côn đến học trộm võ công. Nếu Tần gia trại xung đột với bọn mình thì thực là một điều rất đáng lo ngại. Người ta thương nói rằng hạ thủ trước là cao.
Việc đã đến thế này chỉ còn cách giết lão trong khi trở tay không kịp". Gã nghĩ vậy rồi lạnh lùng buông thõng một câu:
-Chưa chắc!
Diêu Bá Ðương thấy Tư Mã Lâm hai tay thủ vào trong tay áo thì biết là gã sắp phóng ám khí ra. Cách ăn nói và hành động của Diêu Bá Ðương khác hẳn với đường lối võ công của lão. Thật là con người nóng nẩy thô lỗ nhưng khi lâm địch thì lão tuyệt không cẩu thả chút nào, để hết tâm trí vào việc giới bị, lão hỏi:
-Ta mời Vương cô nương lên Vân Châu chơi mấy hôm, chờ Mộ Dung công tử lên đón nàng về, mi muốn ngăn trở phải không?
Tư Mã Lâm đáp:
-Ðất Vân Châu nhà ngươi không xứng đáng chút nào, không thể khuất giá Vương cô nương được. Ta muốn mời Vương cô nương qua phủ Thành Ðô chơi ít bữa.
Diêu Bá Ðương nói:
-Hay lắm! Bây giờ hãy cầm binh khí để phân thắng bại đã. Ai thắng sẽ được làm chủ nhân mời Vương cô nương.
Tư Mã Lâm nói:
-Phải đó! Kẻ bại muốn làm chủ nhân cũng được, nhưng mời Vương cô nương xuống chơi âm cung.
Ðại ý Tư Mã Lâm nói đây không phải là cuộc tỷ thí để phân thắng bại, mà là chiến đấu sinh tử. Kẻ bại tất phải vong mạng.
Diêu Bá Ðương cười ha hả nói:
-Diêu mỗ nhất sinh làm người, liếm máu trên đầu lưỡi đao là thường. Ta Mã chưởng môn muốn đem cái chết hăm doạ ta đó chăng? Ta đâu có sợ?
Tư Mã Lâm hỏi:
-Bây giờ dùng binh khí hay dùng quyền cước?
Diêu Bá Ðương đáp:
-Dĩ nhiên là dùng binh khí cho lẹ, hơi đâu mà dùng quyền cước?
Lão chưa dứt lời đã thấy "veo veo veo" luôn ba tiếng. Trong khi Diêu Bá Ðương đối thoại với Tư Mã Lâm, mắt lão không lúc nào rời gã, hơn nữa lão biết phái Thanh Thành chuyên phóng ám khí từ trong tay áo ra, gọi là "Trụ lý càn khôn",thường thường giết người mà không lộ hình tích lúc phóng ám tiến. Nhưng lão không nghĩ đến chỗ hai bên còn đang lúc giao hẹn, Tư Mã Lâm đột nhiên phóng ám khí bắn ra.
Tư Mã Lâm chợt nhìn sang mé bên tả, dường như đang xảy ra một biến cố gì kỳ lạ, mà kỳ thực gã dẫn dụ cho Diêu Bá Ðương đưa mắt nhìn qua bên này để hạ thủ.
Diêu Bá Ðương biết ra thì ám khí chỉ còn cách lão không đầy nửa thước. Lão cảm thấy đau lòng, tự biết không thể thoát chết được.
Giữa lúc tính mạng Diêu Bá Ðương lâm vào trình trạng ngàn cân treo sợi tóc,bất thình lình một vật đen sì sì, trắng nờm nợp lấp loáng chắn trước ngực lão. Vài tiếng "keng keng" bật lên, mấy mũi độc châm đụng vào rồi rớt xuống đất. Những mũi độc châm này nhanh vun vút, Diêu Bá Ðương là người lâm địch đã nhiều,đành chịu thúc thủ không tránh kịp nữa, thế thì cái vật đen kia phải nhanh gấp mấy lần mới có thể phóng ra sau mà tới đích trước để đón độc châm.
Vật gì mà kỳ dị như vậy? Nó đen hay là nó trắng? Diêu Bá Ðương cùng Tư Mã Lâm chưa trông thấy, Vương Ngọc Yến đã kêu lên:
-Bao thúc thúc đến đấy ư?
Bỗng nghe một giọng cổ quái đáp lại:
-Không phải đâu là không phải đâu. Không phải Bao thúc thúc đến đâu.
Giọng nói vừa nặng, vừa nhẹ, vừa cao, vừa thấp, tựa như người mơ ngủ nhưng ai nấy đều nghe rõ.
Vương Ngọc Yến cười nói:
-Không phải là Bao thúc thúc thì còn ai mà người chưa đến đã lè nhè cái câu "Không phải đâu là không phải đâu!"?
Vẫn cái giọng lè nhè đáp lại:
-Không phải đâu là không phải đâu. Ta không phải là Bao thúc thúc ngươi đâu.
Vương Ngọc Yến nhẹt mồm ra bắt chước hối lại:
-Không phải đâu là không phải đâu, thế thì ngươi là...
Vẫn tiếng đó đáp:
-Mộ Dung huynh đệ còn gọi ta bằng "Tam ca", sao ngươi kêu ta bằng thúc thúc?
Không phải đâu là không phải đâu, ngươi gọi lầm rồi.
Vương Ngọc Yến biết ý gã, khấp khởi mừng thầm, mặt nóng bừng lên hỏi:
-Thế... tôi biết gọi bằng gì bây giờ?
Lại có tiếng trả lời:
-Ha ha, cái đó ta không dạy ngươi đâu, tự ngươi phải biết lấy chứ. Gọi đúng thì ta chơi với, gọi trật thì ta phá đám cho ngươi mất địa vị phu nhân của người anh em nhà Mộ Dung ta.
Vương Ngọc Yến chép miệng nói:
-Sao không thò mặt ra đi?
Lâu lâu không thấy tiếng đáp lại, Vương Ngọc Yến lại hỏi:
-Này này! Sao không ra mặt để giúp ta tống cổ cái bọn đến đây làm lộn xộn.
Bốn bề vẫn lặng ngắt như tờ, tỏ ra gã họ Bao đã đi xa rồi. Vương Ngọc Yến có vẻ thất vọng nói:
-Anh chàng này thật là khó chịu, làm cho người ta không biết đâu mà mò.
Vương Ngọc Yến tưởng được gặp mặt Bao tam tiên sinh để cùng y thương nghị việc đi Thiếu Lâm tự tiếp viện cho Mộ Dung công tử. Nàng chỉ gọi lầm một câu mà y không xuất đầu lộ diện bỏ đi, lòng nàng không khỏi buồn phiền. Trái lại, Tư Mã Lâm và Diêu Bá Ðương đều lấy thế làm mừng. Vừa rồi nghe tiếng Bao Tam tiên sinh, cả hai người cùng cố gắng tìm cho ra chỗ y ẩn thân nhưng tiếng nói lúc gần lúc xa, khi ở mé tả khi qua mé hữu, rút cục vẫn không biết y ở chỗ nào. Nghe y gọi Mộ Dung Phục là "người anh em", lại có vẻ rất thân thiện với Vương Ngọc Yến, giả tỷ y ra mặt chống cự với mình thì mình khó lòng đối phó được với y. Bây giờ y đi xa rồi, thật là may mắn cho mình.
Diêu Bá Ðương suýt bị bỏ mạng, nhờ được Bao tam tiên sinh ra tay cứu thoát,trong lòng rất là cảm kích. Kể ra thì lão cũng không thù hằn gì phái Thanh Thành cho lắm, nhưng lúc này lão cũng muốn giết Tư Mã Lâm cho sướng, lão huơi đao lên nói:
-Quân mặt dầy kia, lén phóng ám khí hại người, đã hại nổi lão phu chưa?
Vừa nói vừa nhằm đầu Tư Mã Lâm bổ xuống. Tư Mã Lâm một tay cầm mũi cương chuỳ, một tay cầm cây tiểu chuỳ, theo đường lối võ công của phái Thanh Thành đấu với lưỡi đơn đao của Diêu Bá Ðương.
Bên Diêu Bá Ðương sức lực hung mãnh, đánh những đòn ác độc. Tư Mã Lâm thì lấy lanh lẹ, khôn ngoan làm sở trường. Môn hạ phái Thanh Thành cũng như các tay hảo thủ Tần gia trại chỉ đứng xem, không ai hạ thủ. Cuộc tranh đấu bữa nay quan hệ vô cùng, hai vị thủ lĩnh thân ra ứng chiến. Cuộc thắng bại sẽ đưa đến sự tồn vong cùng sự vinh nhục cho bổn phái. Vì thế Diêu Bá Ðương cũng như Tư Mã Lâm phải thận trọng từng ly từng tý.
Hai bên đánh nhau đến dư 70 hiệp, Vương Ngọc Yến bỗng quay lại bảo A Châu:
-Ngươi coi kìa! Phép "Ngũ hổ đoạn môn đao" của Tần gia trại dường như khiếm khuyết nhiều hơn chứ không phải chỉ có 5 thế mà thôi. Hai thế "Phụ tử độ hà" và "Trọng tiết thủ nghĩa" sao không thấy Diêu lão gia sử dụng đến?
A Châu chỉ ậm ừ, nàng đâu có thông suốt được hết mọi thế võ khắp thiên hạ như Vương Ngọc Yến?
Diêu Bá Ðương đánh nhau đang hăng, chợt nghe lời Vương Ngọc Yến cả kinh nghĩ thầm: "Nhãn quang cô bé này ghê gớm thật! 64 thế trong phép "Ngũ hổ đoạn môn đao" bị mất đi 5 thế từ mấy chục năm nay, chỉ còn lại 59 thế. Ðến tiên phụ ta,nhân tư chất người kém minh mẫn, không học được đúng hai thế "Phụ tử độ hà" và "Trọng tiết thủ nghĩa", từ đó hai thế này lại bị thất truyền. Vì muốn bảo toàn thể diện, ta đã phải biến cải vài thế để bổ xung vào hai thế này cho đủ số 59, không ngờ nàng nhìn nhận ra được".
Diêu Bá Ðương để nàng khám phá ra vụ này, trong lòng hổ thẹn, muốn đánh bại ngay Tư Mã Lâm để gỡ lại uy thế với đồng đảng. Nhưng Diêu Bá Ðương càng nóng lòng hạ Tư Mã Lâm càng khó bề thành công vì thế đánh của lão cần những đòn chắc chắn và trầm tĩnh.
Cuộc chiến đấu kéo dài đến 400 hiệp, giả tỷ cứ bình tĩnh đánh dai dẳng may ra còn có cơ thủ thắng, nhưng vì lão nóng ruột thành ra sử dụng những đòn hiểm hóc một cách hời hợt, khiến cho Tư Mã Lâm tránh được dễ dàng.
Diêu Bá Ðương tức mình hét to lên một tiếng, khoa đao chém xéo xuống, chờ cho Tư Mã Lâm nhảy tránh sang mé tả, bất thình lình lão co chân đá phóng ra. Tư Mã Lâm đang nhảy, người còn lơ lửng trên không, chân chưa chấm đất, không còn cách nào tránh được, nhưng gã ứng biến cực lẹ, hạ mũi cương chuỳ xuống thấp, để Diêu Bá Ðương đá vào sẽ bị thủng chân. Quả nhiên Diêu Bá Ðương phải chùn
chân lại, không dám đá mạnh, đưa chân trái theo thế "Uyên ương liên hoàn" đá vào cạnh sườn bên phải Tư Mã Lâm. Tư Mã Lâm vung cây tiểu chuỳ đánh xéo lại,nghe chát một tiếng, đúng sống mũi Diêu Bá Ðương, lập tức máu chảy ra lênh láng. Lúc đó chân trái lão cũng đá trúng lưng Tư Mã Lâm. Nhưng vì lão bị đánh trước một chút, trong lòng hoảng sợ, sức mạnh cái đá bị giảm đi một phần. Tư Mã Lâm tuy bị đá nhưng chỉ đau âm ỉ, chưa đến nỗi bị thương. Chỉ vì trúng đòn sai nhau không đầy chớp mắt mà cuộc thắng bại đã thành hình.
Diêu Bá Ðương gầm lên một tiếng, cầm đao toan nhảy bổ lên chém tiếp, nhưng đầu nhức như búa bổ, chân bước loạng choạng không đứng vững được.
Tư Mã Lâm may mà thắng được đòn này, nhưng y biết rằng đối phương chưa chết tất sinh hậu hoạn nguy hiểm vô cùng. Y nghiến răng ken két, nổi lòng tuyệt diệt đối phương, tay phải vung cây tiểu chuỳ lại đánh, chờ cho Diêu Bá Ðương giơ đao lên đỡ, tay trái y sẽ đâm mũi cương chuỳ vào bụng lão.
Phó trại chủ Tần gia trại thấy tình thế nguy ngập, miệng hú lên một tiếng, thanh đơn đao đột nhiên lìa khỏi tay, nhằm Tư Mã Lâm ném tới. Chớp mắt trong nhà đại sảnh nổi lên những tiếng "veo veo", hơn mười lưỡi đơn đao nhất tề nhằm vào Tư Mã Lâm tới ào ạt.
Nguyên võ công Tần gia trại có lối ném đơn đao rời khỏi tay là một môn tuyệt kỹ. Mỗi lưỡi đao nặng từ mười cân trở lại, dùng sức ném ra, thế mạnh ghê gớm.
Huống chi hơn mười lưỡi đơn đao đồng thời tấn công. Tư Mã Lâm đỡ không đỡ được, tránh cũng hết đường. Y trông thấy cái vạ tan thây dưới trận mưa đao trước mắt.
Bất thình lình, ánh đèn lửa chập chờn, hai bàn tay gầy guộc như chân gà nhưng lớn hơn tự nhiên xuất hiện, đưa thẳng vào giữa chỗ những lưỡi đao phóng đến tới tấp. Hai bàn tay này quơ ra bắt rồi nắm lấy cả hơn mười lưỡi đao. Ðoạn mội chuỗi cười khanh khách vang lên: trên ghế giữa nhà sảnh đường, một người ngồi trông rất oai nghiêm.
Người đó ném cả mười mấy thanh đơn đao xuống đất, kêu loảng choảng, mọi người ngơ ngác nhìn nhau.
Người lạ mới đến thân hình ốm o, người cao lều nghều, mình khoác áo trường bào sắc tro. Nét mặt ra chiều gân guốc, ngang tàng. Mọi người vừa thấy y cho ra thủ đoạn bắt cương đao, biết ngay y có bản lãnh thần xuất quỷ một nên đều kính phục, không ai dám nói câu nào.
Bỗng Ðoàn Dự mỉm cười lên tiếng hỏi:
-Huynh đài xuất thủ cực kỳ mau lẹ, võ công hẳn cao cường vào hàng tuyệt đỉnh.
Tôn tính đại danh là gì, có cho tôi biết được chăng?
Chàng sếu vườn chưa trả lời thì Vương Ngọc Yến đã bước lên, cười nói:
-Bao tam ca, tôi tưởng tam ca không trở lại nữa. Cứ khắc khoải trong lòng, ngờ đâu tam ca lại đến. Hay quá! Tuyệt quá!
Ðoàn Dự nói:
-A té ra đây là Bao Tam tiên sinh!
Bao tiên sinh lé mắt nhìn chàng nói:
-Gã tiểu tử này là ai mà dám liến thoắng trước mặt ta?
Ðoàn Dự đáp:
-Tại hạ họ Ðoàn, tên Dự, không biết quyền cước, võ công chi hết, vậy mà lăn lộn vào đám giang hồ, đến nay chưa chết, kể cũng là một sự lạ.
Bao Tam tiên sinh trừng mắt nhìn chàng một hồi, chưa biết nói gì thì Tư Mã Lâm lại xá dài nói:
-Tư Mã Lâm này ở phái Thanh Thành được tiên sinh bắt đao cứu mạng, ơn đức ấy không bao giờ dám quên. Xin Bao tiên sinh cho biết đại danh để ghi vào tâm khảm.
Bao Tam tiên sinh đảo mắt nhìn, giơ chân trái đá binh một cái. Tư Mã Lâm lộn đi mấy vòng. Tiên sinh quát mắng:
-Mi mà cũng hỏi tên tuổi của ta ư? Không phải ta định cứu mi đâu. Vì đây là nhà cô em A Châu. Nếu để cái thân thể hôi thối của mi bị loạn đao phân thây há chẳng làm cho ô uế mặt đất cái thính hương tinh xá này ư? Thôi cút đi cho mau! Tư Mã Lâm thấy Bao Tam Tiên Sinh phóng chân ra đá, toan né tránh thì đã không kịp nữa. Tư Mã Lâm bị đá lộn mấy vòng, sợ hãi vô cùng. Theo quy củ giang hồ, khi bị đòn như vậy, nếu không trở mặt coi kẻ đối phương thành kẻ cừu thù, ra tay đánh lại, quyết một trận sống mái ngay bây giờ thì cũng phải ước hẹn ngày sau sẽ trả thù, chứ không thể can tâm chịu nhục trước mặt mọi người mà nín đi cho xong được. Y làm bộ nói cứng:
-Bao Tam Tiên Sinh! Tư Mã Lâm này hôm nay bị người vây đánh, một mình không địch cả đám đông, suýt phải toi mạng, may được nhờ có tiên sinh cứu cho thoát chết. Tôi là người ân oán phân minh, ân nọ phải đền, nhục kia phải rửa. Bữa nay xin tạm biệt, sau này sẽ có ngày gặp gỡ.
Y tự biết mình dù có luyện tập thêm mấy chục năm nữa thì võ công mình quyết không thể nào kịp Bao Tam Tiên Sinh được.Câu y nói "ân nọ phải đền, nhục kia phải rửa" chẳng qua là câu nói hàm hồ để gỡ lại chút thể diện mà thôi.
Bao Tam Tiên Sinh để mặc y muốn nói thế nào thì nói, không thèm để vào tai,quay sang nói với Vương Ngọc Yến:
-Cô nương kêu ta bằng tam ca là đúng rồi đó.
Vương Ngọc Yến cười nói:
-Tôi kêu anh bằng tam ca, cái đó được lắm nhưng anh phải hứa với tôi một điều:
Bao Tam Tiên Sinh hớn hở, vui mừng hỏi lại:
-Phải hứa điều gì?
Vương Ngọc Yến đáp:
-Tam ca muốn trêu chọc, muốn sinh sự với ai thì mặc, nhưng không được trêu chọc và sinh sự với biểu huynh tôi. Chịu không?
Bao Tam Tiên Sinh cười khanh khách đáp:
-Ðược rồi! Vì nể mặt cô em gái, giả tỷ mà ta có muốn sinh sự với hắn thì cũng phải thương lượng với cô em trước chứ.
Vương Ngọc Yến cười rất tươi nói:
-Ða tạ tam ca.
Ðoàn Dự nhìn Vương Ngọc Yến tươi cười, vẻ đẹp lại càng lộng lẫy, nhưng lòng chàng cảm thấy nôn nao, đầu óc choáng váng. Chàng than thầm: "Nàng được Bao Tam hứa hẹn không sinh sự với thằng cha Mộ Dung công tử mà tỏ ra thân thiết với gã Bao như vậy. Mộ Dung Phục ơi Mộ Dung Phục kiếp trước mi đã tu hành, công đức to lớn đến thế nào mà được gian nhân đối với mi tình nghĩa thâm trọng đến thế?
Về Đầu Trang Go down
Oz Vessalius
Tướng Quân
Tướng Quân
Oz Vessalius

Tổng số bài gửi : 95
Điểm Thưởng : 5149
Độ Tin Tưởng : 104
Join date : 05/01/2011

Thiên Long Bát Bộ - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ   Thiên Long Bát Bộ - Page 2 I_icon_minitimeThu Jan 06, 2011 5:40 pm

THÔNG BÁO :
vì đã up hết truyện nên giờ tớ ko còn trách nhiệm về up truyện nữa nha
ai muốn nói gì thì kiu admin để chị ý nói với tớ
tớ sẽ sửa lại sau
giờ up chuyện khác nghen
Về Đầu Trang Go down
b3ngokanhyeuem
Nguyên Soái
Nguyên Soái
b3ngokanhyeuem

Tiệm Tap Hóa : Thiên Long Bát Bộ - Page 2 2
Tổng số bài gửi : 88
Điểm Thưởng : 4349
Độ Tin Tưởng : 4
Join date : 03/01/2011
Age : 35
Đến từ : Nha Trang

Character sheet
Sakura:

Thiên Long Bát Bộ - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ   Thiên Long Bát Bộ - Page 2 I_icon_minitimeSun Jan 09, 2011 4:50 pm

còn tiếp ko bé post lên nào smile
Về Đầu Trang Go down
https://clubc.forumvi.com
b3ngokanhyeuem
Nguyên Soái
Nguyên Soái
b3ngokanhyeuem

Tiệm Tap Hóa : Thiên Long Bát Bộ - Page 2 2
Tổng số bài gửi : 88
Điểm Thưởng : 4349
Độ Tin Tưởng : 4
Join date : 03/01/2011
Age : 35
Đến từ : Nha Trang

Character sheet
Sakura:

Thiên Long Bát Bộ - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ   Thiên Long Bát Bộ - Page 2 I_icon_minitimeSun Jan 09, 2011 4:53 pm

vì 2 píc này đã post xong các truyện nê mình close lại nha ai muốn tiếp thì gui tin nhắn vo cho minh mình sẽ mỡ
Về Đầu Trang Go down
https://clubc.forumvi.com
Sponsored content




Thiên Long Bát Bộ - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiên Long Bát Bộ   Thiên Long Bát Bộ - Page 2 I_icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 

Thiên Long Bát Bộ

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 

 Similar topics

+
Trang 2 trong tổng số 2 trangChuyển đến trang : Previous  1, 2

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
NhoxLoveForever :: Truyện Đọc + truyện HÌnh :: Truyện Đọc-
Chuyển đến